Chương 18: Những Vị Có Công Với Phật Giáo—those Who Had Helped Maintaining Buddhism (2024)

Phật Pháp Căn Bản (Basic Buddhist Doctrines) Việt - Anh Volume I

  • Chương 1: Đức Phật—the Buddha
  • Chương 2: Đạo Phật—buddhism
  • Chương 3: Nhân Sinh Quan Và Vũ Trụ Quan Phật Giáo—buddhist Points Of View On Human Life And Buddhist Cosmology
  • Chương 4: Chuyển Pháp Luân Và Năm Đệ Tử Đầu Tiên—turning The Wheel Of Dharma And The First Five Disciples
  • Chương 5: Kết Tập Kinh Điển—buddhist Councils
  • Chương 6: Tam Bảo Và Tam Tạng Kinh Điển—triple Jewels And Three Buddhist Canon Baskets
  • Chương 7: Kinh Và Những Kinh Quan Trọng—luật—luận—sutras And Important Sutras-rules-commentaries
  • Chương 8: Đạo Và Trung Đạo—path And Middle Path
  • Chương 9: Vi Diệu Pháp—abhidharma
  • Chương 10: Tam Thời Pháp—three Periods Of The Buddha’s Teachings
  • Chương 11: Thân Quyến—the Buddha’s Relatives
  • Chương 12: Thập Đại Đệ Tử—ten Great Disciples
  • Chương 13: Những Đệ Tử Nổi Tiếng Khác—other Famous Disciples
  • Chương 14: Giáo Đoàn Tăng Và Giáo Đoàn Ni—monk And Nun Orders
  • Chương 15: Tứ Động Tâm—four Buddhist Holy And Sacred Places
  • Chương 16: Những Thánh Tích Khác—other Sacred Places
  • Chương 17: Những Đại Thí Chủ—great Donators
  • Chương 18: Những Vị Có Công Với Phật Giáo—those Who Had Helped Maintaining Buddhism

THIỆN PHÚC
PHẬT PHÁP CĂN BẢN
BASIC BUDDHIST DOCTRINES
VIỆT-ANHVIETNAMESE-ENGLISH
Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại - Oversea Vietnamese Buddhism 2009
VOLUME I

CHƯƠNGMƯỜI TÁM
CHAPTEREIGHTEEN

NhữngVị Có Công Duy Trì Phật Giáo
Thosewho had helped maintaining Buddhism

(A)Những Quân Vương Có Công Duy Trì Phật Giáo Tại Ấn Độ—Kingswho had helped maintaining Buddhism In India
I.Vua Tần Bà Sa La và Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
II.Vua A Xà Thế: Ajatasatru (skt)—See Chapter 13 (D) (III).
III.Vua Ba Tư Nặc: Prasenajit (skt)—See Chapter 17.
IV.Vua Ca Ni Sắc Ca: Kanishka (skt).
V.A Dục Vương—Asoka (272- 236 B.C.).
VI.Vua Siladitya (reigned from 606 till 646): Vua Thi La A Điệt Đa.
(B)Những Vị Cao Tăng Có Công Duy Trì Phật Giáo Tại Ấn Độ—FamousMonks who had helped maintaining Buddhism In India
I.Amoghavajra (skt): Bất Không.
II.Aryadeva (skt): Devabodhisattva (skt)—Thánh Đề Bà.
III.Atisa (982-1054): A Để Sa—Atisa (skt) Atisha (p).
IV.Tăng Sĩ Buddhadatta.
V.Candrakirti (skt): Nguyệt Xứng.
VI.Dharmakirti (skt): Pháp Xứng.
VII.Kapimala(skt): Ca Tỳ Ma La.
VIII.MaggaliputtaTissa (p): Mục Kiền Liên Tư Đế Tu.
IX.Mahadeva (skt): Ma Ha Đề Bà—Đại Thiên.
X.Parsva: Hiếp Tôn Giả (Worship of the Ribs)—See Twenty eight IndianPatriarchs in Chapter 19.
XI.Santaraksita (680-740): Tịch Hộ.
XII.Santideva(skt): Tịch Thiên—Shantideva (p).
XIII.SưTilopa (988-1069).
XIV.Yasha(skt): Da Xá.
(C)Những Vị Có Công Duy Trì Phật Giáo Tại Trung Hoa—Those whohad helped maintaining Buddhism In China
I.Bát Lạt Mật Đế: Pramiti (skt)—Paramiti (skt).
II.Bồ Đề Lưu Chi: Bodhiruci (skt).
III.Bồ Đề Lưu Chi: Giác Ái (571-727).
IV.Ca Diếp Ma Đằng: Kasyapa-Matanga (skt).
V.Chân Đế Tam Tạng (499-569): Paramartha Tripitaka Master.
VI.Đàm Ma Nan Đề: Dharmanandi (skt).
VII.Fo-T’u-Teng(232-348).
VIII.Samôn Giác Hiền: Buddhabhadra (359- 429).
IX.Sư Huệ Lâm—Hui Lin Master.
X.Na Đề: Punyopaya (skt)—Nadi (skt).
XI.Thực Xoa Nan Đà—Saksananda (skt): Siksananda (skt).
(D)Những Vị Có Công Duy Trì Phật Giáo Tại Các Nước Khác—Thosewho had helped maintaining Buddhism In Other Countries
I.Bu Ston (1290- 1364).
II.Gampopa Sonam Rinchen (1079-1153).
III.Jamgon Kongtrul Lodro Taye.
IV.Jamyang Khyentse Chogi Lodro (1896-1969).
V.Jangya Hutukhtu.
VI.Jetsun Dampa Hutukhtu.
VII.Jnana-prabha(skt): Trí Quang—Light of knowledge—See Chapter 19.
VIII.KaluRinpoche (1905-1989).
IX.Kamalashila (700-750): Liên Hoa Giới.
X.Longchen Rabjampa (1308-1364).
XI.Machik Lapgi Dronma (1055-1145).
XII.VuaMahasena (334-362).
XIII.MarpaChogi Lodro (1012-1097): See Chapter 19.
XIV.RinchenSangpo (958-1055): See Chapter 19.
XV.Srongsen Gampo (618-650).
XVI.TsongKhapa (1357-1419): Sumatikirti (skt)—Tông Khách Ba.
XVII.KhươngTăng Hội.
XVIII.TỳNi Đa Lưu Chi.
XIX.VôNgôn Thông.
XX.Trần Thái Tông (1218-1277).
XXI.TrầnThánh Tông (1240-1290).
XXII.TrầnNhân Tông (1258-1308).
XXIII.SưAn Thiền.
XXIV.MinhĐăng Quang.
XXV.QuangDuc.

(A)Những Quân Vương Có Công Duy Trì
PhậtGiáo Tại Ấn Độ
Kingswho had helped maintaining
BuddhismIn India

I.Vua Tần Bà Sa La và Đức Phật Thích Ca Mâu Ni: Bimbisara andSakyamuni Buddha (skt): Âm Hán từ Phạn Ngữ là Tần Bà Sa La(Bình Sa Vương), là tên của vị vua trị vì vương quốc cổMa Kiệt Đà (543-493 trước Tây Lịch),cùng thời vớiPhật Thích Ca. Ông là người đã xây dựng thành Vương Xá.Ông lên ngôi vua lúc 15 tuổi. Lúc 30 tuổi nhân nghe một thờipháp của Phật mà trở thành tín đồ thế tục tích cựctrong việc truyền bá Phật giáo. Ông là vị thí chủ đầutiên của Đức Phật trong hàng vua chúa. Ông đã hiến ngôiTrúc Lâm Tịnh Xá cho Phật và Tăng đoàn. Khi Thái Tử Sĩ ĐạtTa thoát ly đời sống trần tục, một hôm vua Bình Sa Vươngtrông thấy Ngài, một đạo sĩ khiêm tốn đi khất thực trênđường phố của kinh thành Vương Xá, vua lấy làm cảm kíchthấy tướng mạo oai nghi và tư cách trang nghiêm sang trọngcủa Ngài nên vua sai người đi dò thăm. Khi được biết rằngthường bữa sau khi độ ngọ thì vị đạo sĩ cao quí ấyngụ tại Pandavapabbata, vua cùng đoàn tùy tùng đến viếngđạo sĩ, hỏi thăm người là ai, sanh trưởng ở xứ nào.Đạo sĩ Cồ Đàm trả lời: “Ngay phía trước đây, tâu ĐạiVương, trên vùng Hy Mã Lạp Sơn, trong châu thành Kosala củanhững gia tộc cổ kính, một quốc gia cường thạnh và phongphú, tôi xuất thân từ triều đại Thái Dương, dòng dõi ThíchCa. Tôi không bám víu theo nhục dục ngũ trần. Nhận thứcđược mối nguy hiểm tệ hại của thú vui vật chất và thấyan toàn trong đời sống xuất gia, tôi đi tìm cái gì cao quýnhứt và tâm tôi được an lạc.”Vua Bình Sa Vương thỉnhđạo sĩ Cồ Đàm, sau khi chứng ngộ đạo quả, trở lạiviếng thăm vương quốc Ma Kiệt Đà.Đúng như lời hứa,sau khi thành đạt đạo quả Chánh Đẳng Chánh Giác, ĐứcPhật cùng với các đệ tử A La Hán từ Bồ Đề Đạo Tràngđi đến thành Vương Xá. Nơi đây Ngài ngự tại điện Suppatittha,trong một rừng kè. Vua Bình Sa Vương và quần thần đến đónĐức Phật. Khi ấy phần đông dân chúng thờ Thần Lửa, nênphần đông dân chúng tôn kính Đức Phật và Đại Ca Diếpnhư nhau vì trước đây Đại Ca Diếp là một trong những vịlãnh đạo thờ Thần Lửa. Tuy nhiên, ông đã bỏ đạo quy-yvới Phật Thích Ca. Đức Phật muốn nhân cơ hội nầy cứuđộ dân chúng trong thành nên Ngài hỏi Ca Diếp tại sao khôngthờ Thần Lửa nữa. Hiểu được ý của Phật nên Đại CaDiếp giải thích rằng sở dĩ ông từ bỏ không tôn thờ ThầnLửa nữa vì ông chọn con đường đưa tới trạng thái anvui, châu toàn, không ô nhiễm dục vọng, ngược lại nhữnglạc thú trần tục không bổ ích. Nói xong, Đại Ca Diếp khấuđầu đảnh lễ dưới chân Đức Phật và xác nhận: “BạchĐức Thế Tôn, Ngài là đạo sư của con. Con là đệ tử.”Tất cả mọi người đều hoan hỷ. Đức Phật nhân cơ hộinầy thuyết một bài về Túc Sanh Truyện Maha Narada Kasyapa,dạy rằng trong một tiền kiếp Ngài là Narada, lúc ấy còndục vọng, cũng đã dìu dắt Đại Ca Diếp một cách tươngtự Nghe Đức Phật thuyết Pháp, ánh sáng chân lý rọi đếnmọi người. Vua Bình Sa Vương đắc quả Tu Đà Hườn, xinquy-y Phật Pháp Tăng, và thỉnh Đức Phật cùng chư Tăng vềcung điện thọ trai ngày hôm sau. Khi mọi người độ ngọxong, Vua ngỏ ý muốn biết nơi nào thích hợp để Đức Phậtngự. Đức Phật trả lời: “Một nơi hẻo lánh, không xamà cũng không gần thành thị để những ai muốn, có thểđến dễ dàng, một nơi mát mẻ, ban ngày không đông đảoồn ào, ban đêm yên tịnh, khoảng khoát và kín đáo, nơi ấysẽ thích hợp.” Vua Bình sa Vương nghĩ rằng khu Trúc Lâmcủa ông có thể hội đủ những yếu tố cần thiết ấynên ông xin dâng lên Đức Phật và chư Tăng khu rừng nầy,cũng được gọi là “nơi trú ẩn của loài sóc.” Đây lànơi được dâng cúng đầu tiên cho Đức Phật và chư Tăng.Sau khi quy-y, vua Bình Sa Vương sống đời gương mẫu của mộtvị vua. Ông luôn trì giữ tám giới trong sáu ngày thọ BátQuan Trai. Dù rất mực minh quân và có tâm đạo nhiệt thành,vua Bình sa Vương phải chịu quả xấu của tiền nghiệp. Vàonhững năm cuối đời, Bimbisara bị con trai là A Xà Thế hạngục và giết chết để đoạt ngôi—Bimbisara, name of the kingof the ancient kingdom of Magadha (543-493 B.C.), at the time of the BuddhaSakyamuni. He built the city of Rajagaha. He ascended the throne at theage of fifteen. At the age of thirty, on hearing a discourse from the Buddha,he became a Buddhist lay follower and an active fosterer of Budhism. Hewas the Buddha’s first royal patron. He donated (offered) the BambooForest Vanuvana to the Buddha and the Sangha for the use of the Assemblyof the Buddhist Monks. When Prince Siddharttha renounced the world andwas seeking alms in the streets of Rajagaha as a humble ascetic, the Kingsaw him from his palace and was highly impressed by his majestic appearanceand dignified deportment. Immediately he sent messengers to ascertain whohe was. On learning that he was resting after his meal under the Padavapabbata,the King, accompanied by his retinue, went up to the royal ascetic andinquired about his birth-place and ancestry. The ascetic Gotama replied:“Your Majesty! Just straight upon the Himalaya, there is, in the districtof Kosala of ancient families, a country endowed with wealth and energy.I am sprung from that family which clan belongs to the Solar dynasty, bybirth to the Sakya. I crave not for pleasures of senses. Realizing theevil of sensual pleasures and seeking renunciation as safe, I proceededto seek the highest, for in that my mind rejoices.” Thereupon the Kinginvited him to visit his kingdom after his enlightenment. In accordancewith his promise the Buddha made to King Bimbisara before his enlightenment,he, with his large retinue of Arahant disciples, went from Gaya to Rajagaha,the capital of Magadha. Here he stayed at the Suppatittha Shrine in a palmgrove. Hearing of the Buddha’s arrival, King Bimbisara approached andsaluted the Buddha. At that time, most of the people worshipped fire-sacrifice,so they venerated both the Buddha and Kasyapa. However, Maha Kasyapa, usedto be one of the leaders of the fire-sacrifice cult, had abandoned hisreligion to follow the Buddha. The Buddha wanted to take this opportunityto save the people, so he questioned Kasyapa why he had given up his fire-sacrifice.Understanding the motive of the Buddha’s question, Kasyapa explainedthat he abandoned fire-sacrifice because he preferred the passionless andpeaceful state of Nirvana to worthless sensual pleasures. After this, Kasyapafell at the feet of the Buddha and acknowledging his superiority said:“My teacher, Lord, is the Exalted One. I am the disciple.” The Buddhathereupon preached the Maha Narada kasyapa Jataka. Hearing the Dharma expounedby the Buddha, the “Eye of Truth” arose in them all. King Bimbisaraattained Sotapatti, and seeking refuge in the Buddha, the Dharma, and theSangha; the King invited the Buddha and his disciples to the palace fora meal on the following day. After the meal the King wished to know wherethe Buddha would reside. The Buddha replied that a secluded place, neithertoo far nor too close to the city, accessible to those who desire to visit,pleasant, not crowded during the day, not too noisy at night, with as fewsounds as possible, airy and fit for for the privacy of men, would be suitable.The King thought that his Bamboo Grove would meet all such requirements.Therefore in return for the transcendental gift the Buddha had bestowedupon him, he gifted for the use of the Buddha and the Sangha the park withthis ideally secluded bamboo grove, also known as “The Sanctuary of theSquirrels.” This was the first gift of a place of residence for the Buddhaand his disciples. After his conversion the King led the life of an exemplarymonarch observing Uposatha regularly on six days of the month. Though hewas a pious monarch, yet, due to his past evil karma, he had a very sadand pathetic end. At the end of his life he was imprisoned and assassinatedand dethroned by his son Ajatasattu.

II.Vua A Xà Thế: Ajatasatru (skt)—Ajatasattu (p)—A Xà Thế là contrai vua Bình Sa Vương và Hoàng hậu Vi Đề Hi. A Xà Thế chínhlà người đã hạ ngục và bỏ đói vua cha để đoạt ngôi.Ông còn cùng với Đề Bà Đạt Đa âm mưu hãm hại Phật,nhưng bất thành. Sau nầy ông trở thành một Phật tử vàhết lòng ủng hộ Phật giáo—Ajatasattu, son of King Bimbisaraand Queen Vaidehi. Heimprisoned his father and starved him to deathto usurp the throne. Also together with Devadatta, he developed a conspiracyagainst the Buddha which was unsuccessful. However, later he became a followerof the Buddha and strongly supported Buddhism—See Chapter 13 (D) (III).

III.Vua Ba Tư Nặc: Prasenajit (skt)—See Chapter 17.

IV.Vua Ca Ni Sắc Ca: Kanishka (skt)—Vua nước Nguyệt Chi (tộc NguyệtThị, tổ tiên xuất phát từ Trung Á), cai trị xứ Kiện ĐàLa, phía bắc Punjab bây giờ, ông đã thống trị một vùngrộng lớn mà phía tây giáp đến Đại Hạ, vùng lãnh thổrộng lớn từ Kabul, Gandhara, Sindh, Tây bắc Ấn Độ, Kashmirvà một phần của Madhyadesa về sau đời vua A Dục. Ông làmột ông vua đầy quyền uy thuộc dòng dõi Saka hoặc Turuska.Ông là vị hộ pháp lớn của Phật giáo, chỉ sau có vua ADục và Di Lan Đà. Chuyện quy-y theo đạo Phật của Ca Ni SắcCa cũng diễn ra giống hệt như chuyện vua A Dục. Người tanói rằng thuở thiếu thời, quốc vương Nguyệt Chi đã khôngcó sự tôn trọng đối với đạo Phật. Ông không tin vàonghiệp báo và đối xử với đạo Phật một cách khinh mạn.Rồi chính nỗi ân hận trước cảnh giết chóc trong các cuộcchinh phục Kashgar, Yarkand và Khotan đã khiến ông tìm đếnvới giáo lý của đạo Phật, và sau đó ông đã truyền bámột cách tận tình. Ông đã hoàn tất công việc của vua ADục và giúp cho Phật pháp hoằng dương thắng lợi khắp châuÁ. Hoạt động truyền giáo không ngừng nghỉ xuyên qua đếquốc rộng lớn của ông ta từ Madhyadesa ở Ấn Độ đếnTrung Á. Theo Keith trong Trung Anh Phật Học Từ Điển của GiáoSư Soothill, niên đại của Ca Ni Sắc Ca có lẽ vào khoảngcuối thế kỷ thứ nhất. Vào khoảng từ 125 đến 165 sau TâyLịch, ông đã triệu tập hội đồng kiết tập kinh điểnlần thứtư, với 500 vị Tăng dưới sự chủ tọa củaThế Hữu đại sư tại vùng Kashmir. Nhưng theo Giáo Sư Bapattrong Hai Ngàn Năm Trăm Năm Phật Giáo, thì triều đại Ca NiSắc Ca từ 78 đến 101 sau Tây Lịch đã đánh dấu một khúcquanh quan trọng trong lịch sử Phật giáo và văn học Phậtgiáo. Triều đại nầy đã chứng kiến sự trổi dậy củaPhật giáo Đại Thừa và hoạt động văn học rực rỡ đượckhởi đầu từ những danh Tăng như Hiếp Tôn Giả, Mã Minh,Thế Hữu và các vị khác. Chính trong thời đại nầy, tiếngPali đã phải nhường chỗ cho tiếng Phạn. Trong lãnh vựcnghệ thuật, trường phái điêu khắc Gandhara nổi tiếng đãphát triển và các bức tượng Phật, tượng Bồ Tát đã bắtđầu xuất hiện. Việc đóng góp to lớn nhất mà vua Ca NiSắc Ca đã dành cho Phật giáo là việc triệu tập Nghị HộiKết Tập Kinh Điển lần thứ tư tại Kashmir (see Kết TậpKinh Điển IV). Theo Tây Vực Ký Truyện của Huyền Trang thìNghị Hội đã diễn ra tại Kashmir. Mục đích của nghị hộilà kết tập các giáo lý của Đức Phật và viết luận giảicho giáo lý nầy theo Nhất Thiết Hữu Bộ (Sarvastivada school).Nghị Hội lần thứ tư đã kết tập được bộ Tỳ Bà SaLuận. Về Tam Tạng của giáo điển, nghị hội đã biên tậpđược 10 vạn bài tụng của bộ luận Ưu Ba Đề Xà (upadesa-sastra)giải thích kinh tạng, mười vạn bài tụng của bộ Tỳ NạiĐa Tỳ Bà Sa (Vinaya-vibhasa-sastra) giải thích Luật Tạng, vàmười vạn bài tụng của bộ A Tỳ Đạt Ma Tỳ Bà Sa giảithích Luận Tạng. Bộ Đại Tỳ Bà Sa (Mahavibhasa) hiện cònbản Hoa ngữ, có lẽ là tiêu biểu cho các bộ luận đã đượcbiên soạn tại Nghị Hội nầy. Khi kinh điển đã được kiếttập, ông bèn cho khắc vào bản đồng và lưu trữ trong tháp.Ngoài ra, vua Ca Ni Sắc Ca còn cho xây dựng nhiều tu viện vàbảo tháp. Ông đã xây dựng nên một thành phố có tên làKanishkapura, được xác định là thành phố Kanispur ngày naytại Kashmir. Riêng tại Purusapura, nay là Peshawar, ông đã choxây dựng một đại điện mang tên ông, phía tây của điệnnầy là Đại Tu Viện Ca Ni Sắc Ca. Đại điện Ca Ni Sắc Calà một kiến trúc uy nghi, cao 120 mét, phần đáy có năm tầng,cao 45 mét. Các vị khách hành hương từ Trung Quốc là PhápHiển, Tống Vân, và Huyền Trang đã không tiếc lời ca ngợivẻ đẹp kiến trúc của ngôi tháp quan trọng nầy. Còn ĐạiTu Viện Ca Ni Sắc Ca là một tu viện cổ, vào thế kỷ thứbảy khi Huyền Trang đến thăm viếng, ngài đã kể lại làtrên các tầngcủa tu viện có nhiều sân thượng đượcnối nhau bởi những hành lang, và mặc dù các tòa nhà đãđổ nát nhưng có thể nói đây là công trình nghệ thuậthiếm có. Trong tu viện ấy, vẫn còn một số Tỳ Kheo thuộcphái Tiểu Thừa—King of the Yueh-Chih, i.e. of Tukhara and the Indo-Scythians,ruler of Gandhara in northern Punjab, who conquered northern India andas far as Batria from Kabul, Sindh, North West India, Kashmir, and partof Madhyadesa. He became a patron of Buddhism, the greatest after Asokaand Milinda. The story of Kanishka’s conversion to Buddhism followedthe same way as that of Ashoka. It is said that Yueh-Chi monarch in hisearly life had no respect for the Buddhist religion. He did not believein Karma, and treated Buddhism with crushing contempt. It was his remorseat the bloodshed during his conquests of Kashgar, Yarkand, and Khotan thatdrew him to the quietist teachings of Buddhism which he propagated laterwith such zeal. It was during Kanishka’s reign and largely through hisefforts that Buddhism was successfully introduced into Central and EasternAsia. There was ceaseless missionary activity throughout his vast empirewhich extended from Madhyadesa in India to Central Asia. According to Keithin The Dictionary of Chinese-English Buddhist Terms composed by ProfessorSoothill, his date probably at the close of the first century. At around125-165 A.D., he convoked the fourth synod in Kashmir (see Kết TậpKinh Điển III), of 500 leading monks under the presidency of Vasumitra.However, according to Prof. Bapat in Twenty-Five Hundred Years Of Buddhism,Kanishka’s reign (78-101 A.D.) also marked an important turning pointin the history of Buddhism and Buddhist literature. It witnessed the riseof Mahayana Buddhism and the magnificent literary activity started by Parsva,Asvaghosa, Vasumitra, and others.It was in this age that Pali gaveplace to Sanskrit. In the field of art, the celebrated Gandhara sculpturesdeveloped and figures of the Buddha and Bodhisattvas began to appear. TheKing’s greatest contribution to Buddhism was his convention of the FourthCouncil. According to Hsuan-Tsang in the Records of Western Countries,the Council met in Kashmir. The chief aim of the Council was the compilationof the doctrines of Buddhism and the writing of commentaries on them accordingto the Sarvastivada school of Buddhism.The Fourth Council compiledthe commentaries known as the Vibhasa-sastra. On the three Pitakas of theBuddhist Canon, the Council composed 100,000 stanzas of the Upadesa-sastrasexplaining the canonical sutras, 100,000 stanzas of the vinaya-vibhasa-sastrasexplaining the Vinaya, and 100,000 stanzas of the Abhidharma. The Mahvibhasa,which is still preserved in Chinese, perhaps represents the commentariesprepared by this Council. When the canon was revised and settled; thishe is said to have had engraved on brass and placed in a stupa. Besides,king Kanishka founded many monasteries and stupas. He founded a city namedKanishkapura which has been identified with the modern Kanispur in Kashmir.Kanishka erected a Great Stupa which was named after him. To the west ofthe stupa, he built a large monastery which was known as Kanishka Mahavihara.Both these structures were erected at Purusapura, now Peshawar. The GreatStupa was a magnificent structure, 400 feet high, the base being in fivestages and 150 feet high. The Chinese pilgrim Fa-Hsien, Sung-Yun, and Hsuan-Tsanghave lavished great praise on the architectural beauty of this importantrelic tower. The Kanishka Mahavihara was an old monastery, at the timewhen Hsuan-Tsang visited it in the seventh century A.D., its upper storeysand many terraces were connected by passages and although the buildingswere in ruins they could be said to be of rare art. There were still inthe monastery a few Hinayanist monks.

V.A Dục Vương—Asoka (272- 236 B.C.):
1)Đại cương về vua A Dục—An overview of King Asoka: Vị vua thờicổ Ấn Độ, thái tổ của triều đại Maurya. Vương quốcMaurya nằm về phía Bắc Ấn độ (272-236 BC). Một trong nhữngnhân vật quan trọng trong lịch sử cổ Ấn độ. Sau cuộcchinh phạt Kalinga, ông bị khủng hoảng tinh thần và bắt đầuhướng về đạo Phật. Ông đã trở thành một quân vươngPhật tử và biến vương quốc của ông thành vương quốccủa Chánh pháp. Nhưng theo những truyền thuyết khác thì ônglà vị vua thứ ba của triều đại Maurya. Ông được xem nhưlà một quân vương Phật tử. Ông là cháu nội của vua CandraguptaMaurya và là con của vua Bindusara. Vua A Dục được nhớ đếnnhiều nhất bởi những trụ đá dựng lên trên toàn cõi đếquốc của ông để nói lên sắc luật trị quốc của mình.Theo lịch sử truyền thống thì ông là một vì vua độc áctrong nhiều năm, nhưng sau cuộc chiến đẫm máu với xứ lánggiềng là Kalinga vào năm 260 trước Tây lịch, ông đã từbỏ phương cách chinh phục bằng vũ lực, và trở thành Phậttử theo phái Tỳ Ba Sa, như đã ghi lại trong bia đá sắc luậtsố XIII. Truyền thống Phật giáo xác quyết rằng chính ônglà người đã triệu tập Đại Hội Kết Tập Kinh Điển lầnthứ ba tại thủ đô Ba Liên Phất dưới sự chủ trì củaMoggaliputta Tissa, và một ngàn vị Tăng tham dự, quyết địnhrằng giáo pháp của Vibhajyavada phải là giáo pháp chính thống,chư Tăng nào theo hệ thống giáo pháp khác sẽ bị trục xuấtra khỏi Tăng đoàn. Sự cống hiến chính của ông là việcbảo trợ cho đoàn truyền giáo do chính con trai ông dẫn đầuđi đến Sri Lanka. Đoàn truyền giáo này đã thành công đếnnỗi vị vua của Sri Lanka đã cải đạo thành Phật tử, vàkết quả là đạo Phật đã trở thành quốc giáo tại đây:Emperor of Ancient India, founder of Maurya Dynasty. The ancient kingdomof Maurya (Northern India 272-236 BC). He is one of the most importantfigures in ancient Indian history. After a bloody campaign in the eastand costly victory over Kalinga, he started to have psychological crisisand caused him to enter Buddhism. He became a devoted lay follower andresolved to commence a “reign of dharma.” But according to some otherlegends, he was thethird king of Indian Maurya dynasty. He is widelyviewed in Buddhist tradition as the paradigm of the “religious king.”The grandson of Candragupta Maurya and son of King Bindusara, Asoka isbest remembered for his “rock edicts” that outlined his ruling philosophyand which were placed throughout his realm. According to traditional histories,he was a harsh and ruthless ruler in his early years, but after a bloodywar against the neighboring state of Kalinga in 260 he renounced the methodof armed conquest and became a Buddhist lay disciple in the Vibhajyavadatradition, described in Rock Edict XIII. Buddhist tradition asserts thathe convened the “Third Buddhist Council” at his capital city of Pataliputraunder the direction of the monk Moggaliputta Tissa, which was attendedby 1,000 monks and which decided that the Vibhajyavada doctrine shouldbe considered orthodox and that monks adhering to other systems be expelledfrom the Samgha. His other major contribution to the development of Buddhismwas his sponsorship of a mission by his son Mahinda (a Buddhist monk) toSri Lanka. This was so successful that the king of Sri Lanka became a Buddhistconvert, and subsequently Buddhism became the state religion.

2)Đạo Phật dưới thời vua A Dục—Buddhism under the reign ofKing Asoka:Đạo Phật bắt đầu hưng thịnh vào thế kỷthứ 3 trước Tây lịch dưới sự bảo trợ của vua A Dục,người trị vì vương quốc Ma Kiệt Đà bao trùm hầu hếtmiền Bắc Ấn Độ. Vua A Dục đã từ bỏ truyền thống caitrị bằng xâm lược và thành lập một vương quốc cai trịbằng giáo pháp của Đức Phật. Chịu ảnh hưởng bởi giáolý của Tăng đoàn, nhà vua đã thể hiện lòng mong muốn bảovệ và mang lại an lạc cho thần dân, ông khuyến khích vàtưởng thưởng lòng bao dung độ lượng. Nhà vua đã khánhthành nhiều công trình công cộng nhằm tưởng nhớ Đức Phậtvà chịu trách nhiệm phần lớn sự phát triển của các bảotháp và sự thờ phụng các bảo tháp này. Qua những chỉ dụđược khắc chạm lại trên các tảng đá hay trụ đá rảirác khắp nơi trong vương quốc, chúng ta thấy được nhữngquan điểm và sắc luật của nhà vua luôn cố gắng thực thitư tưởng đạo Phật—Buddhism began to flourish in the 3rd centuryB.C. under the patronage of Emperor Asoka, ruler of the Magadhan Empirewhich covered most of northern India. Asoka abandoned a tradition of rulingby conquest and became engaged in setting up a kingdom governed accordingto Buddhist Dharma. Influenced by the teachings of the monastic community(Sangha), he expressed the desire to protect and please the people, andurged and rewarded generosity. Asoka inaugurated many public works to commemoratethe Buddha and is largely responsible for the proliferation of stupas (relicmounds) and the cult of devotion at these stupas. His views and ordinances,through which he tried to implement Buddhist ideas, were recorded in hisfamous edicts carved on rocks and pillars throughout his empire.
3)A Dục Vương Thạch Trụ—Asoka Marble Pillar: A Dục Vương ThạchTrụ—Những trụ đá do vua A Dục của Ấn Độ dựng lênvào khoảng những năm 250 trước Tây Lịch trong vườn LâmTỳ Ni của xứ Nepal và những nơi khác, ghi dấu nơi ĐứcPhật đản sanh năm 624 trước Tây Lịch, những hoạt độnghoằng pháp của Đức Phật, cũng như những hoạt động hộpháp của vua A Dục. Trong Người Hành Hương Khiêm Tốn TạiTây Vực của Pháp Hiển, ông chỉ ghi lại có sáu trụ đácủa vua A Dục. Một trụ đá sau chùa do vua A Dục xây ở Sankasya,tại nơi Đức Phật từ cung trời Đao Lợi giáng trần. Theotruyền thuyết Phật giáo, tại đây có lần người dị giáođến thách đấu với các Tỳ kheo để chiếm chỗ ở. CácTỳ kheo đã thua trong cuộc tranh luận đó nên đã khấn nhưsau: “Nếu nơi này dành cho Tỳ kheo ở thì xin điềm lạ xãyra.” Vừa lập nguyện xong thì con sư tử trên đỉnh trụcất tiếng rống lớn, người ngoại đạo hoảng sợ bỏ đi.Hai trụ dựng ở Xá Vệ, cách cổng Nam 1200 bước, trướchai gian phòng tại tịnh xá Kỳ Viên, một bên trái và mộtbên phải của một căn phòng trước tịnh xá. Một trụ dựngở Tỳ Xá Ly, tại nơi Đức Phật đã cho những người LêSa bình bát khất thực của Ngài để làm kỷ niệm như xálợi khi Ngài rời Tỳ Xá Ly để đi Câu Thi Na. Theo truyềnthuyết Phật giáo, tại thành Tỳ Xá Ly, dòng họ Licchavis muốntheo Đức Phật đến chỗ Ngài nhập Niết Bàn, nhưng Ngàikhông đồng ý, và họ cũng không muốn bỏ về. Đức Phậtbèn dùng thần thông tạo ra một cái hố khiến họ không vượtqua được. Sau đó Đức Phật cho họ bình bát khất thựccủa Ngài để làm tin và bảo họ trở lui. Ngay tại nơi đâytrụ đá đã được vua A Dục dựng lên. Hai trụ còn lạiđược tìm thấy ở Ba Liên Phất, một ở phía Nam tháp A DụcVương, và một tại thành Địa Ngục do chính vua A Dục xây.Trong sáu trụ đá này có ba trụ được khắc chữ. Trụ cạnhtháp A Dục có khắc dòng chữ như sau: “Vua A Dụcđãhiến dâng toàn cõi Diêm Phù Đề cho chư Tăng khắp nướcrồi chuộc lại. Và việc này Ngài đã làm ba lần.” Trụcòn lại trong thành Ba Liên Phất cũng có khắc chữ nhưng NgàiPháp Hiểnđã không ghi gì về nó. Trong số sáu trụđá, Ngài Pháp Hiển chỉ ghi chiều cao của ba trụ. Trụ ởSankasya cao 30 bộ (có lẽ là thước của Trung Hoa). Trụ ởphía Nam tháp A Dục cao hơn 30 bộ, chu vi là 14 hay 15 bộ. Cáctrụ đều có hình tượng và hoa văn trang hoàng. Trên đỉnhcó trụ đá bên trái của tịnh xá Kỳ Viên, có hình ảnhmột bánh xe, còn trụ đá bên phải của tịnh xá này có hìnhmột con bò. Trụ đá ở Sankasya có hình một con sư tử. Trênbốn cạnh của trụ đá đều sáng như gương, có chạm trỗnhững hình tượng Phật. Trụ đá ở thành Địa Ngục tạiBa Liên Phất cũng có một con sư tử trên đỉnh—Asoka MarblePillars, erected by Indian king of Asoka in about 250 B.C. in Lumbini gardenin present-day Nepal and all over the place in India, to show that theBuddha was born here in 624 B.C., periods when the Buddha travelled allover India to preach his doctrines, and Asoka’s support of Buddhism.According to Fa-Hsien in the Unassuming Pilgrim (his journey to India),he only recorded six pillars. One was erected behind the temple built byking Asoka at Sankasya, on the spot where the Buddha descended from TrayastrimsaHeaven. According to Buddhist legends, here once there was a heretics whocame to challenge the monks the right to live here. At the time, the monkswere defeated in arguments and prayed together: “If this place is forthe monks to live, please show some miracles.” Right after the vow, thelion on the top of the pillar roared loudly. The heretics frightened andwent away. Two other pillars stood at Sravasta, 1,200 paces from the southerngate of the Jetavana Vihara, in front of two rooms. One other pillar waserected in Vaisali, at the place where the Buddha gave his alms-bowl tothe Licchavis as a relic when he left Vaisali for Kusinara. According toBuddhist legends, the Licchavis in Vaisali wished to follow the Buddhato his place of Parinirvana, but the Buddha did not agree and they wouldnot go away. The Buddha had to use his supernatural powers to make appeareda deep ditch that they could not pass. Then the Buddha gave them his beggingbowl as a token of faith and sent them back. The stone pillar was erectedby King Asoka right over this place. The rest two pillars were found inPataliputra, one to the south of Asoka Stupa, and the other at the cityof Niraya, built by Asoka himself. Among these six pillars, three pillarshad inscriptions on them. The one near the Asoka Stupa had these lines:“King Asoka offered Jambudvipa to the Sangha from all parts of the world,then redeemed it again. And this, he did three times.” The other stupa,also at Pataliputra had also an inscription, but Fa-Hsien did not quoteit. He mentioned simply that an inscription of this pillar related thereason for building it and the year, the month and the day of its erection.The third stupa with inscriptions was erected at Vaisali, but here Fa-Hsienmentioned simply that a store pillar with inscriptions was erected there.Of the six pillars Fa-Hsien recorded the height of only three stupa. Thestone pillar at Sankasya was thirty feet high. The stone pillar to thesouth of Asoka Stupa measured more than 30 feet high (may be he used Chinesefoot) and fourteen or fifteen feet in circumference, while the pillar atthe city of Hell measured also more than thirty feet high. Four pillarshad images as decorative designs. On the top of the left pillar in frontof Jevatana Vihara stood the image of a wheel, while the right pillar hadan image of an ox. The pillar at Sankasya had the image of a lion on itstop. All four sides of the pillar were shinning like glass. The Buddha’simages were carved. The pillar in the city of Hell at Pataliputra had alsoa lion on its top.

Chương 18: Những Vị Có Công Với Phật Giáo—those Who Had Helped Maintaining Buddhism (1)
(Trụđá do vua A Dục dựng lên tại Sarnath
Asoka’spillar in Sarnath)

4)A Dục Vương Tháp—The stupa of King Asoka: Ngôi tháp Vua A Dụchay tháp Đại Giác do vua A Dục xây dựng vào thế kỷ thứba trước Tây Lịch ở Bồ Đề Đạo Tràng, nơi Đức Phậtchứng đạo Vô Thượng Bồ Đề cách nay hơn 2.500 năm tạimiền bắc Ấn Độ, bây giờ là một phần của Nepal. Phíasau Tháp Đại Giác, có một tháp nhỏ bằng đá, nằm trongkhuôn viên của Bồ Đề Đạo Tràng, với những hình tượngnổi—The stupa of King Asoka or the Maha Bodhi Temple erected by kingAsoka in the third century B.C. at Buddha Gaya where the Buddha attainedenlightenment over 2,500 years ago in northern India, present-day partof Nepal. Behind the Maha Bodhi Temple at Buddha-Gaya, there is a smallstupa, made of stone with the carved images of Buddhas.

VI.Siladitya (reigned from 606 till 646): Thi La A Điệt Đa—Giới Nhật—VuaThi La A Điệt Đa, lên ngôi tại Kanyakubja vào năm 606 sau TâyLịch và sau đó xâm chiếm Punjab. Ông là một thí chủ rấtphóng khoáng đối với Phật Giáo. Ông xây dựng nhiều chùatháp Phật Giáo, và tỏ ra rất ưu đãi hai ngài Giới Hiềnvà Huyền Trang. Chính ông là người chủ trương biên soạnbộ Bát Đại Linh Tháp Phạm Tán. Ông trị vì xứKanyakubjakhoảng 40 năm—Son of Pratapaditya and brother of Rajyavardhana. Underthe spiritual auspices of Avalokitesvara, he became king of Kanyakubja,606 A.D. and later on conquered India and the Punjab. He was merciful toall creatures, strained drinking water for horses and elephants, he wasmost liberal patron of Buddhism, re-established the great quinquennialassembly, built many stupas, showed special favour to Silabhadra and Hsuan-Tsang,and composed the Astama-hasri-Caitya-Samskrta-Strota (Bát Đại LinhTháp Phạm Tán). He reigned about 40 years.

(B)Những Vị Cao Tăng Có Công Duy Trì
PhậtGiáo Tại Ấn Độ
FamousMonks who had helped
maintainingBuddhism In India

I.Amoghavajra (skt): Bất Không—A Mục Khư Bạt Chiết La—VịTăng tên Bất Không Kim Cang (Amoghavajra), người Bắc Ấn, đệtử của trường phái Mật Giáo Phổ Hiền. Ngài Kim Cang Trírất nổi tiếng và đã sáng lập ra trường phái Mật GiáoDu Già ở Trung Quốc vào khoảng những năm 719-720 sau Tây Lịch.Bất Không kế thừa lãnh đạo trường phái nầy vào năm 732.Trong cuộc hành hương xuyên Ấn và Tích Lan từ năm 741 đến746, ông đã mang về Trung Quốc 500 quyển kinh luận; giới thiệuphương pháp chuyển ngữ mới từ Phạn sang Hoa ngữ, ông đãxuất bản 108 tác phẩm. Ông là người có công giới thiệungày lễ Vu Lan Bồn, ngày rằm tháng bảy vào truyền thốngTrung Quốc. Vào khoảng năm 746 ông trở lại Trung Quốc, vàocung lập đàn quy-y cho vua Thiên Bảo Huyền Tống. Ông có biệttài cầu mưa ngưng bão. Đến năm 749 ông được phép về nước,nhưng vừa tới quận Nam Hải thì có sắc chỉ giữ ông lại.Năm 756ông được triệu hồi về kinh và ở đây ôngdùng hết thời gian còn lại đến năm 771 dịch và in ấn kinhMật Tông được cả thảy 120 quyển. Ông là người đạidiện chính của Phật giáo Mật Tông ở Trung Hoa, hoằng hóarộng rãi qua ba triều vua nhà Đường, được phong danh hiệuQuốc Sư. Vào thời ông Mật Giáo cực thịnh. Ông thị tịchvào năm 774, thọ 70 tuổi, được vua ban cho thụy hiệu TamTạng Đại Biện Chánh Quảng Trí—A monk from northern India,a follower of the mystic teachings of Samantabhadra. Vajramati is reputedto have founded the Yogacarya or Tantric school in China about 719-720A.D. Amogha succeeded him in its leadership in 732. From a journey throughIndia and Ceylon from 741 to 746, he brought back to China more than 500sutras and sastras; introduceda new form for transliterating Sanskritand published 108 works. He is credited with the introduction of the Ullambanafestival of All Souls, 15th of 7th moon. He is the chief representativeof Buddhist mysticism in China, spreading it widely through the patronageof three successive emperors during the T’ang dynasty. He was especiallynoted for rain-making and stilling storms in 746, when he baptized theemperor Hsuan-Tsung. In 749 he received permission to return home, butwas stopped by imperial orders when in the south of China. In 756 underSu Tsung he was recalled to the capital. His time until 771 was spent translatingand editing tantric books in 120 volumes, and the Yogacara rose to itspeak of prosperity. He died greatly honoured at 70 years of age in 774,twelve years of Tai-Tsung, the third emperor under whom he had served.The festival of feeding the hungry spirits is attributed to him. His titlesof Thesaurus of Wisdom and Amogha Tripitaka.

II.Aryadeva (skt): Devabodhisattva (skt)—Thánh Đề Bà—Thiên Thần—“Aryadeva”là từ Bắc Phạn có nghĩa là “vị trời khôn ngoan.” Đâylà tên của Bồ Tát Đề Bà, người gốc Tích Lan, theo biênniên tiểu sử thì ông mù một mắt. Ông là một trong nhữngtriết gia chính của trường phái Trung Quán, là tác giả bộTứ Bách Luận nổi tiếng. Theo ý kiến chung thì ông là mộtnhà bút chiến dữ tợn, người đã tấn công các địch thủvà điều đó đã đưa đến sự việc ông bị ám sát chết.Tổ thứ 15 dòng Thiền Ấn Độ, gốc người Tích Lan, là đệtử của Ngài Long Thọ Bồ Tát. Ông cũng được gọi là ĐềBà Bồ Tát, Thánh Thiên và Thanh Mục. Ông là tác giả củachín tác phẩm và là một người nổi tiếng về chống lạiBà La Môn. Các tác phẩm của ông chỉ còn tồn tại qua nhữngbản dịch bằng tiếng Tây Tạng và Trung Hoa, bình giải nhữngbài viết của Thầy ông là Ngài Long Thọ Bồ Tát. Tứ BáchLuận giải thích sự vắng mặt của bản ngã, dựa vào cácbiện chứng tiêu cực. Bách Luận có ảnh hưởng rất lớnđối với Phật giáo, trong đó Thánh Đề Bà cố gắng bácbỏ những triết lý khác nhau đối lập với Phật giáo. Đâylà một trong những bộ luận căn bản của trường phái ĐạiThừa Tam Luận Tông ở Trung Hoa—A Sanskrit term for “Wise god.”Name of Devabodhisattva, a native of Ceylon and he is said in some biographicalsources to have been blind in one eye. He is one of the major philosophersof the Madhyamaka school and the author of the influential work “TheFour Hundred” (Catuhsataka). By all accounts he was a fierce polemicist(eloquence), who attacks on rival philosophers and that led to his assassination.The fifteen patriarch, a native of South India, or Ceylon, and discipleof Nagarjuna; he is also styled as Devabodhisattva, Aryadeva, and Nilanetra.He was the author of the nine works and a famous antagonist of Brahmanism.His works, which are only fully extant in Tibetan and Chinese versions,are commentaries on the writings of his teacher Nagarjuna. The Four Hundred(Chatuh-shataka) explains in four hundred verses the absence of substantiality(anatman or shunyata) through the use of negative dialectic. The Treatiseon the Hundred Songs (Shata-shastra) exercised a great influence on Buddhism.In it Aryadeva attempted to refute various philosophical theories opposedto Buddhism. It is one of the foundational works of the Three Treatises(San-Lun) school of Chinese Madhyamaka.

III.Atisa (982-1054): A Để Sa—Atisa (skt) Atisha (p).
(A)Tiểu sử của A Để Sa—Atisa’s biography: A Để Sa, vị sưPhật giáo gốc hoàng gia tại vùng Bengal, Ngài đã đặc raphương pháp hệ thống hóa sự đại giác. Ngài là trưởnglão của xứ Ma Kiệt Đà và là giảng sư rất nổi tiếngcủa trường Đại học Vikramsila. Ngài đến Tây tạng vàonăm 1042 theo lời mời của các nhà lãnh đạo miền Tây củaTây Tạng. Ngài đã ở đấy giảng đạo trong suốt 12 nămsau cùng của cuộc đời. Tại đây ngài đã sáng lập trườngphái Kadampa. Những thuyết giảng của Ngài có ảnh hưởngrất lớn đối với Phật giáo Tây Tạng sau nầy. Ngài lànhân vật hàng đầu trong thời kỳ truyền bá Phật giáo sangTây Tạng lần thứ nhất. Sau khi đến Tây Tạng ngài đã làmviệc, cải cách và phục hưng giáo thuyết và phương cáchtu tập Phật giáo. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ngài làquyển “Giác Ngộ Đạo Đăng” (đèn sáng cho con đườnggiác ngộ) trong đó ngài vạch ra con đường tiệm tiến đếnPhật quả. Theo Giáo Sư Bapat trong Hai Ngàn Năm Trăm Năm PhậtGiáo, tên tuổi của luận sư Dipankara-Srijnana được xếp hàngđầu trong số những người Ấn Độ đã hoạt động nhiệttìnhđể tạo cho Tây Tạng và Ấn Độ gần gủi nhauhơn về mặt văn hóa. Tại Tây Tạng, danh tiếng ông chỉ đứngsau danh tiếng của Đức Phật và ngài Liên Hoa Sinh (Padmasambhava).Trong số tất cả các học giả Ấn Độ đến Tây Tạng, luậnsư A Để Sa là một học giả có công lớn lao trong việc dịchnhững tác phẩm vô giá từ tiếng Phạn ra tiếng Tây Tạng.Thân phụ của ngài là vua Kalyana Sri và thân mẫu là Sri Prabhavati.Ông sinh năm 982 tại Sahor, miền đông Ấn Độ. Không xa nơiDipankara chào đời (cung điện Kalyana Sri) là tu viện Vikrama,nơi mà song thân của ngài rất gắn bó. Tu viện nầy rấtnổi tiếng vào thời đó. Năm 12 tuổi, ngài xuất gia. Songthân muốn ngài tu tại tu viện Vikramasila, nhưng sau lời khuyêncủa luận sư Jitari, ngài xin phép song thân để đi đến NaLan Đà. Tại đây ngài được thầy của trưởng tu viện làAvadhutipada nhận làm đệ tử. Thế là cậu bé Dipankara mườihai tuổi ở lại với Avadhutipada cho đến năm 18 tuổi. Trongthời gian nầy cậu đã nghiên cứu kỹ các kinh sách Phậtgiáo. Sau đó ngài trở về Vikramasila và hoàn tất việc họchành Phật pháp tại đây, nhưng sự khao khát về kiến thứccủa ngài vẫn chưa nguôi, nên ngài đi đến tu viện Mati ởVajrasana và trở thành đệ tử của Mahavinayadhara Silaraksita,một nhà nghiên cứu sâu về luật tạng. Dipankara học vềluật tạng trong hai năm. Do đó lúc 31 tuổi, Dipankara đã trởthành nhà tinh thông về Tam Tạng và Mật tông, và trở thànhmột học giả toàn diện. Tại Vikramasila, Dipankara đã gặpgỡ các học giả nổi tiếng, và có lẽ đã học được nhiềuđiều từ các môn đệ của ngài Hộ Pháp. Tuy nhiên, nỗikhao khát chu du của ông vẫn chưa thỏa mãn. Từ Bồ Đề ĐạoTràng, ngài đi đến vùng duyên hải, có lẽ là đến Tamralipti,nay là Tamluk, trong quận Midnapur miền tây Bengal. Ngoài ra, ngàicòn đi đến Lộc Uyển (Sarnath), Xá Vệ (Sravasti), Câu Thi Na(Kusinara) cùng các thánh địa khác trước khi dong buồm điSumatra. Lúc Dipankara du hành sang Sumatra là thời gian vua Vijayapalađang cai trị xứ Ma Kiệt Đà và Mahmud Ghaznavi đang xâm chiếmẤn Độ (có lẽ vào năm 1023). Dipankara đi suốt 14 tháng, trongthời gian nầy, có thể ngài đã ghé thăm cả Miến Điệnvà Mã Lai. Ngày nay, không còn một dấu tích Phật giáo nàotại Sumatra ngoại trừ những đống gạch đổ nát của mộtvài tu viện cổ. Nhưng khi Dipankara đến đây thì nơi nầyđã nổi tiếng về kiến thức Phật giáo. Các tu sĩ Phậtgiáo nước ngoài trên đường đến Ấn Độ thường lưu lạiSumatra một thời gian để trau dồi tiếng Phạn. Người tađược biết điều nầy qua các bản tường thuật mà cácnhà hành hương Trung Hoa từ bốn thế kỷ trước còn đểlại. Năm 44 tuổi ngài rời khỏi Sumatra và quay trở về Vikramasila.Do có kiến thức và năng lực xuất chúng, ngài đã trở thànhngười đứng đầu nhóm 51 học giả và lãnh đạo 108đền chùa tại đại tu viện Vikramasila—A Buddhist scholar ofroyal family in Bengal, who particularly systematized the method for generatingenlightened mind (bodhicitta). He was a patriarch of Magadha and a well-knownteacher of Vikramsila University. Atisa arrived in 1042 in response toan invitation from the rulers of western Tibet. He spent the last twelveyears of his life there to preach. In Tibet he founded Kadampa school.His teaching tradition had a great influence on Tibetan Buddhism later.He was the leading figure in the “second dissemination” of Buddhismto Tibet. After his arrival he worked to reform and revive Buddhist teachingsand practices. His most influential work is “the lamp for the Path toAwakening,” in which he outlined a gradual path to buddhahood. Accordingto Prof. Bapat in the Twenty-Five Hundred Years of Buddhism, Acarya Dipankara-Srijnana’sname stands foremost among the Indians who had worked selflessly to bringTibet and India closer together culturally. In Tibet, his fame is onlynext to that of the Buddha and Padmasambhava. Undoubtedly, of all the Indianscholars who went to Tibet from India, Acarya Dipankara-Srijnana was oneof the greatest. He made available priceless Sanskrit works in Tibetan.Acarya Dipankara-Srijnana’s father was king Kalyana Sri and his motherSri Prabhavati. He was born in 982 A.D. in eastern India. Not far fromthe Kalyana Sri palace where Dipankara was born, was the Vikrama-vihara,which was also called Vikramasila Vihara. The parents of Dipankara wereintimately connected with the Vikramasila Vihara which was widely knownthroughout the Buddhist world in those days. He left home at the age oftwelve. His parents wanted him to stay at Vikramasila-Vihara, but afterthe advice from Acarya Jitari, he wanted to go toNalanda. He reportedhimself to Bodhibhadra, head of at Nalanda-vihara. Later, Avadhutipada,the Guru (Bodhibhadra’s master), accepted him as a disciple. Dipankarastayed with him until he was eighteen. In this period, he made a thoroughstudy of the scriptures. Later, he returned to Vikramasila Vihara to completehis study, but his thirst for knowledge was not quenched, so he went tothe Mati Vihara in Vajrasana and became the disciple of MahavinayadharaSilaraksita, the great Vinaya-pitaka scholar. He studied Vinaya-pitakawith him for two years. Thus, by the time he reached the age of 31, DipankaraSrijnana had already become a master of the three Pitakas and the Tantras,and an all-round scholar.At Vikramasila, Dipankara had met and learneda lot from the disciples of Acarya Dharmapala. However, his wander lustwas not satisfied. From Bodh-Gaya he went to the sea coast, perhaps toTamralipti, the present Tamluk in the Midnapur district of West Bengal.Besides, Dipankara must have visited Sarnath (Rsipatan), Sravasti, Kusinaraand other holy places before he set sail for Sumatra. Dipankara travelledto Sumatra while Vijayapala was the king of Magadha and Mahmud Ghaznaviinvaded India (1023). Dipankara travelled for fourteen months and duringthis period he might have visited Burma and Malaysia also. No vestige ofthe Buddhist religion is left in Sumatra now except for the ruins of someold viharas, but when Dipankara went there, it was famous for Buddhistlearning. It was usual for foreign monks on their way to India to stayin Sumatra for some time to acquire proficiency in Sanskrit. This is knownfrom the account left by Chinese pilgrims four centuries earlier. At theage of forty-four, Dipankara Srijnana left Sumatra and returned to Vikramasila.By virtue of his extraordinary learning and ability, he became the chiefamong the 51 scholars and the leader of 108 temples in the VikramasilaVihara.
(B)Cuộc sống và công việc của tôn giả A Để Sa tại Tây Tạng—Thelife and work of Atisa in Tibet: Cuộc sống và công việc hoằnghóa của ngài A Để Sa tại Tây Tạng rất quan trọng cho sựphát triển Phật giáo tại nước nầy. Từ khi ông đến TâyTạng thì Phật giáo nước nầy đã phát triển thành nhiềutrường phái bản địa khác nhau. trong số nầy hình thứcPhật giáo hỗn tạp và chưa cải cách ban đầu được gọilà Rnin-ma-pa hay là trường phái Cũ với bốn tiểu phái chính.Các tín đồ của trường phái nầy thờ cúng Padmasambhava,xem đây là người sáng lập và là đạo sư của họ, họtin tưởng vào sự ứng nghiệm của thần linh ma quỷ, họthường được nhận biết qua chiếc mũ màu đỏ. Các giáolý cải cách của A Để Sa, dựa trên truyền thống Du Giàdo Di Lặc và Vô trước sáng lập, dẫn đến sự hình thànhcủa trường phái Bkah-gdams-pa bởi người đệ tửngườiTây Tạng của ông là Hbrom-ston. Trường phái nầy có quan điểmtổng hợp của cả Tiểu Thừa lẫn Đại Thừa, buộc cáctu sĩ phải sống độc thân và không khuyến khích chuyện phùphép. Chính trên cơ sở của giáo lý nầy mà nhà cải cáchvĩ đại của Tây Tạng là Tông Khách Bavào thế kỷthứ 14, đã lập nên trường phái Dge-lugs-pa, qua sự gạn lọcnhững nghi thức cầu kỳ của Bkah-gdams-pa và đang chiếm ưuthế trong Phật giáo Tây Tạng ngày nay cả về thế tục lẫntâm linh, qua sự kế vị của các vị Đạt Lai Lạt Ma (DalaiLamas)—The life and work of Atisa in Tibet are very important for thedevelopment of Tibetan Buddhism. From the time he came to Tibet, TibetanBuddhism developed into different indigenous schools. In relation to these,the earlier heterogenous and unreformed type of Buddhism came to be calledRnin-ma-pa or the old school with four main sub-sects. The followers ofthis school worship Padmasambhava as their founder and Guru, believe inthe fulfilment of both the divine and the demoniacal, and are generallyrecognized as such by their red caps. Atisa’s reformed teachings, basedupon the Yogacara traditions founded by Maitreya and Asanga, led to theestablishment of the Bkah-gdams-pa school by his Tibetan disciple, Hbrom-ston.It took a synthetic view of the teachings of both Hinayana and Mahayana,enforced celibacy upon the monks and discouraged magic practices. It wason the authoritative basis of this doctrine that the great Tibetan reformer,Tson-kha-pa, founded in the 14th century A.D. the Dge-lugs-pa sect, whichpurified the Bkah-gdams-pa of much of its elaborate ritualism and todaydominates Tibetan Buddhism both temporarily and spiritually, through thereligious succession of the Dalai Lamas, of whom the fourteenth is nowthe head of this theocracy.

IV.Buddhadatta: Tăng sĩ học giả, một trong những nhà phê bìnhVi Diệu Pháp có ảnh hưởng rất lớn. Ngài là nhà tu thôngthái thuộc trường phái Theravada vào thế kỷ thứ IV hay Vsau CN, gốc Tamil. Theo truyền thống, ông gặp Buddhaghosa vàmuốn ông này trụ tại Mahavihara. Ông nổi tiếng với cácbộ “Sự Xác Định Về Giới Luật Tự Viện” và “NhậpVào Thượng Trí.” Quyển đầu là một quyển luận về LuậtTạng, và quyển thứ nhì luận về Luận Tạng. Sau chuyếndu hành dài về thủ đô Anuradhapura, ông đã soạn những bìnhgiải Vinaya-pitaka và Buddhavamsa cũng như nhiều sách giáo lýchính xác và rõ ràng cho trường phái Theravada. Tuy cùng thờivới Phật Âm, Buddhadatta đã đến Tích Lan trước Phật Âm.Theo Buddhaghosappatti, đạo sư Buddhadatta đã đến Tích Lan trướcđó để nghiên cứu giáo lý của Đức Phật. Trên đườngtrở về sau khi hoàn tất việc nghiên cứu, thuyền của ônggặp một chiếc thuyền chở luận sư Phật Âm đang đến TíchLan. Hai người gặp nhau, họ tự giới thiệu, chào hỏi nhau.Luận sư Phật Âm nói: “Những bài luận giải giáo lý củaĐức Phật hiện có bằng tiếng Tích Lan. Tôi đang đi đếnTích Lan để dịch sang tiếng Ma Kiệt Đà.” Buddhadatta đáplại: “Đạo hữu ơi! Tôi cũng đã đến Tích Lan vì mụcđích đó, nhưng tôi không còn sống được bao lâu nữa, khôngthể hoàn thành nhiệm vụ được.” Trong khi hai vị đang nóichuyện thì thuyền vẫn cứ đi qua nhau và không còn nghe đượcgì nữa. Dường như khi rời xa nhau, Buddhadatta đã yêu cầuPhật Âm gửi về Ấn Độ các bản sao của mỗi bài luậngiải của ông cho mình, và có lẽ Phật Âm đã làm điềuđó. Sau đó Buddhadatta đã tóm lược các bài luận giải củaPhật Âm về Luận Tạng trong cuốn Nhập A Tỳ Đạt Ma Luận(Abhidharmavatara), và các luận giải về Luật Tạng trong cuốnVinaya-vinicchya—Scholar-monk who was one of the most influential Abhidharmacommentators. He was a scholar of the Theravada school who lived in the4th to 5th centuries. He was of Tamil origin. According to tradition, hemet Buddhaghosa and like him resided in the Mahavihara. He is best knownfor for his “Ascertainment of Monastic Discipline” and “Entry intoHigher Knowledge.” The first is a commentary on the Vinaya-Pitaka, andthe second is a commentary on the Abhidharma-Pitaka. After long journeysto the capital Anuradhapura, he composed his works and commentaries tothe Vinaya-pitaka, the Buddhavamsa which later set forth the teachingsof the Theravada in a concise and clear way. Though a contemporary of Buddhaghosa,Buddhadatta had preceded the latter in Ceylon. According to the Buddhaghosuppatti,Acarya Buddhadatta had gone earlier to Ceylon to study the word of theBuddha.When he was on his way back to India after having completedhis studies, his boat crossed another which carried Acarya Buddhaghosato Ceylon. As they met each other, they introduced themselves and exchangedgreetings. Acarya Buddhaghosa said: “The commentaries of the Buddha isavailable in the Simhalese language. I am proceeding to Ceylon to renderthem into Magadhi.” Buddhadatta replied: “Brother, I too had come toCeylon for the same purpose, but as I shall not live very long now, I cannotfinish the task.” As the two elders were still conversing, the boatspassed each other beyond hearing. It appears that as they departed, Buddhadattarequested Buddhaghosa to send copies of each of his commentaries to himin India, which in all probability Buddhaghosa did. Buddhadatta later summarizedBuddhaghosa’s commentaries on the Abhidharma-pitaka in the Abhidharmavataraand those on the Vinaya-pitaka in the Vinaya-vinicchya.

V.Candrakirti (skt): Nguyệt Xứng.
(A)Sơ lược tiểu sử của ngài Nguyệt Xứng—A brief biographyof Candrakirti: Một trong những triết gia theo chủ trương bútchiến của trường phái Trung Đạo vào thế kỷ thứ tám,ông đã có ảnh hưởng rất lớn trong việc truyền bá trườngphái Trung Đạo vào đất Tây Tạng. Ông tự xem mình như lànhà phê bình bảo vệ truyền thống giáo thuyết của NgàiBuddhspalita chống lại các đối thủ của nó, quan trọng hơnhết là truyền thống Bhavya và truyền thống Du Già đượccác ngài Vô Trước và Thế Thân sáng lập. Tập phê bình củaông trên tác phẩm Căn Bản Kệ về Trung Đạo, có nhan đề“Minh Ngữ” đã trở thành tập sách giảng giải dứt khoátvề Long Thọ tại Tây Tạng. Ông là một trong những đạibiểu quan trọng nhất của trường phái Trung Quán vào thếkỷ thứ 8. Ông giữ một vai trò quan trọng và có ảnh hưởngrất lớn trong việc phát triển Trung Quán tại Tây Tạng—Aninfluential Madhyamaka philosopher and polemicist, considered by Tibetandoxographers to be the most important commentator of the Prasangika-Madhyamakatradition. He saw himself as defending the commentarial tradition of Buddhapalitaagainst its rivals, most importantly the tradition of Bhavya and the Yogacaratradition, founded by Asanga and Vasubandhu. His commentary on Nagarjuna’sFundamental Verses on the Middle Way (Mulamadhyamaka-Karika), entitledClear Words (Prasanna-pada), became the definitive interpretation of Nagarjunain Tibet. One of the most important representatives of the school of Madhyamikain the 8th century. He played an important role and had great influenceon the development of the Madhyamika in Tibet.
(B)Những bộ luận của ngài Nguyệt Xứng—Commentaries writtenby Candrakirti: Ông đã viết khoảng 20 bộ luận giải về TrungQuán Luận của ngài Long Thọ. Những tác phẩm này hiện chỉcòn được bảo tồn ở những bản dịch bằng tiếng TâyTạng. Trong đó “Minh Cú Luận” của ngài là bản duy nhấtcòn tồn tại trong văn bản Bắc Phạn nguyên thủy. Dườngnhư chính nó đã hất cẳng tất cả những bản chú giảikhác. Nguyệt Xứng nổi tiếng vào đầu thế kỷ thứ 7 vàngài đã viết một số tác phẩm xuất sắc. Ngài đã từngtheo Liên Hoa Giác, một đệ tử của ngài Phật Hộ, để nghiêncứu về giáo lý Trung Quán, và có thể ngài cũng là đệ tửcủa Thanh Biện. Như đã nói, tác phẩm “Minh Cú Luận” làbộ luận giải do ngài viết nhằm chú giải Trung Quán Luậncủa ngài Long Thọ. Ngoài ra, “Nhập Trung Luận” và chú thíchcủa nó chính là tác phẩm độc lập của ngài. Trong Minh CúLuận ngài thường đề cập đến “Nhập trung Luận,” điềunày cho thấy rõ rằng “Nhập trung Luận” đã được viếtsớm hơn Minh Cú Luận. Ngoài ra, ngài còn chú giải “Thấtthập tụng không tánh luận,” “Lục Thập Tụng Chánh LýLuận” của ngài Long Thọ và “Tứ Bách Luận” của ngàiThánh Đề Bà. Ngoài ra, còn có hai bản khái luận, đó là“Nhập trung Đạo Bát Nhã Luận” và “Ngũ Uẩn Luận.”Trong tất cả các sách của ngài, hiện chỉ còn Minh Cú Luậnlà vẫn còn bản gốc, còn thì tất cả chỉ còn tồn tạiqua bản dịch bằng Tạng ngữ mà thôi. Nguyệt Xứng đã biệnhộ cho Quy Mậu Luận Chứng Phái một cách nhiệt liệt, hơnnữa ngài còn nêu ra rất nhiều điểm sơ hở về luận lýcủa Thanh Biện. Ngài cũng ủng hộ chủ trương quan điểmthông thường của cảm quan tri giác và chỉ trích học thuyết“Tự Tướng” và “Vô Phân Biệt.” Ngài cũng phê bìnhvề thuyết “Vô Thức” và cho rằng ý thức mà không cóđối tượng là một điều không thể quan niệm được—About20 of his commentaries were written on Nagarjuna’s Madhyamaka Sastra.They are available only in Tibetan translation. Candrakirti’s Prasannapadacommentary is the only one that has survived in the original Samskrta.It seems to have elbowed every other commentary out of existence. He flourishedearly in seventh century A.D. and wrote several outstanding works. He wasborn in Samanta in the South. He studied Madhyamaka philosophy under Kamalabuddhi,a disciple of Buddhipalita, a disciple of Kamalabuddhi, a disciple of Buddhapalitaand probably under Bhavya also. His prasannapada commentary on Nagarjuna’sMadhyamaka sastra, has already been mentioned. He wrote an independentwork, named “Madhyamakavatara” with an auto-commentary. He frequentlyrefers to Madhyamakavatara in his Prasannapada which goes to show thatthe former was written earlier than the latter. He also wrote commentarieson Nagarjuna’s Sunyata Saptati and Yukti Sastika and on Aryadeva’sCatuhsataka. Two other manuals (prakaranas), Madhyamaka-prajnavatara andPancaskandha were also written by him. Of all his works, only Prasannapadais available in the original; other works are available only in Tibetantranslation. Candrakiirti vigorously defends the Prasangika school, andexposes the hollowness of Bhavaviveka’s logic at many places. He alsosupports the common sense view of sense perception and criticizes the doctrineof the ‘unique particular’ (Svalaksana) and perception devoid of determination(kalpanapodha). He has also criticized Vijnanavada and maintains that consciousness(vijnana) without an object is unthinkable.

VI.Dharmakirti (skt): Pháp Xứng—Pháp Xứng sanh ra tại làng Tirumalaitrong xứ Cola, là người kế thừa của Trần Na. Thoạt tiênông học lý luận học với Isvarasena, một đệ tử của ngàiTrần Na. Về sau, ông đến đại tu viện Nalanda và trở thànhđệ tử của ngài Pháp Hộ (see Dhammapala in Sanskrit/Pali-VietnameseSection) khi ấy là viện trưởng và cũng là một luận sư xuấtchúng của Duy Thức tông. Tiếng tăm của ông bị chìm vàobóng tối, nhưng Rahul Sankrityayan đã phát hiện tại Tây Tạngbản dịch từ nguyên bản tiếng Phạn của cuốn Lượng ThíchLuận (Pramana-vartika), tác phẩm lớn của Pháp Xứng, sau biếncố đó người ta mới biết ông đã từng là một trong nhữngnhà luận lý và triết gia Phật giáo nổi tiếng và xuất chúng,ông cũng là nhà lãnh đạo trường phái Yogachara, đến từNam Ấn vào thế kỷ thứVII sau Tây Lịch. Tiến sĩ Stcherbatskyxem ông như là triết gia Kant của Ấn Độ quả cũng khôngsai. Thậm chí các đối thủ Bà La Môn của ông cũng phảinhìn nhận năng lực suy luận siêu phàm của ông. Ngoài tácphẩm chính của ông là Pramana-vartika (Giải Thích các TiêuChuẩn hay Lượng Thích Luận), ông còn viết những tác phẩmkhác nhưQuyết Định Theo các Tiêu Chuẩn hay Lượng QuyếtĐịnh Luận (Pramana-viahishchaya), bàn về những vấn đề cănbản của nhận thức, Nyaya-bindu, Sambandha-pariksa, Hetu-bindu,Vadanyaya và Samanantara-siddhi. Tất cả những tác phẩm nầyphần nhiều nói về lý thuyết tri thức của Phật giáo, vàcho thấy bộ óc uyên bác rộng lớn với một tư duy tinh tế.Các tác phẩm của ngài Pháp Xứng đánh dấu tột đỉnhvề nhận thức luận mà Phật giáo sau nầy đã đạt tới—Dharmakirti,who was born in a village named Tirumalai in the Cola country, was a successorof Dinnaga. First, he studied logic from Isvarasena who was among Dinnaga’spupils. Later, he went to Nalanda and became a disciple of Dhammapala whowas at that time the Sangha-sthavira of the Mahavihara and a prominentteacher of the Vijnanavada school. His fame as a subtle philosophical thinkerand dialectician was still recently in obscurity until Rahul Sankrityayandiscovered in Tibet the original Sanskrit version of the Pramana-vartikaof Dharmakirti. After that incident, people realized that he was one ofthe most important and unsurpassed Buddhist logicians and philosophersand one of the principal spokesmen of the Yogachara, came from South Indiain the 7th century. Doctor Stcherbatsky rightly regards him as the Kantof India. Even his Brahminical adversaries have acknowledged the superiorityof his reasoning powers. Beside his principal works Pramana-vartika (Explanationof the Touchstones), other important works written by Dharmakirti are thePramana-viahishchaya (Resolve concerning the Touchstones)treat thebasic questions concerning the nature of knowledge, the Nyaya-bindu, theSambandha-pariksa, the Hetu-bindu, the Vadanyaya, and the Samanantara-siddhi.All these works deal generally with the Buddhist theory of knowledge anddisplay great erudiction and subtle thinking. Dharmakirti’s writingsmark the highest summit reached in epistemological speculation by laterBuddhism.

VII.Kapimala(skt): Ca Tỳ Ma La—Một vị Tăng ở Ma Kiệt Đà bây giờ làPatna, vào khoảng thế kỷ thứ hai sau Tây Lịch. Trước ngàitheo ngoại đạo, sau được ngài Mã Minh khuất phục nên xinlàm đệ tử Phật. Ngài là Tổ thứ 13 ở Ấn Độ. Ngườita nói ngài chính là người đã khuất phục và truyền phápcho ngài Long Thọ—A monk of Magadha (Patna), around the second centuryA.D., converted by Asvaghosa. He was the thirteenth Patriarch and he himselfis said to have converted Nagarjuna.

VIII.MaggaliputtaTissa (p): Mục Kiền Liên Tư Đế Tu—Theo Mahavamsa, Mục KiềnLiên Tư Đế Tu sinh ra trong một gia đình Bà La Môn, chưa đến16 tuổi ngài đã tinh thông hết ba kinh Vệ Đà. Tuy nhiên, sauđó ngài được trưởng lãoSiggava hóa độ. Ngài đãđi theo Phật giáo và nhanh chóng đạt đến quả vị A La Hánvới đầy đủ mọi phép thần thông. Chính do ảnh hưởngcủa ngài mà vua A Dục đã cho con trai của mình là Ma ThẩnĐà và con gái là Tăng Già Mật Đa xuất gia tu theo đạo Phật.Sau đó, hai vị nầy đã vượt biển đến Tích Lan để hóađộ cho cả hòn đảo nầy tin theo Phật. Với việc vua A Dụcđi theo đạo Phật, nhiều tu viện nhanh chóng phát triển vềmặt vật chất và các tu sĩ có một đời sống đầy đủdễ chịu hơn. Nhiều nhóm dị giáo đã bị mất nguồn thunhậpnên ngã theo Phật giáo. Tuy nhiên, dù theo đạo Phật, nhưnghọ vẫn giữ tín ngưỡng, cách hành trì, cũng như thuyếtgiảng giáo lý của họ thay vì giáo lý đạo Phật. Điềunầy khiến cho trưởng lão Mục Kiền Liên Tư Đế Tu đau buồnvô cùng, nên ông lui về ở ẩn một nơi hẻo lánh trong núiA Phù suốt bảy năm. Số người dị giáo và tu sĩ giả hiệungày một đông hơn những tín đồ chân chánh. Kết quả làtrong suốt bảy năm chẳng có một tự viện nào tổ chứclễ Bố Tát hay tự tứ. Cộng đồng tu sĩ sùng đạo từ chốikhông chịu làm lễ nầy với những người dị giáo. Vua ADục rất lo lắng về sự xao lãng nầy của Tăng chúng nênphải ra lệnh thực hiện lễ Bố Tát. Tuy nhiên, vị đạithần được nhà vua giao phó nhiệm vụ nầy đã gây ra mộtvụ thảm sát đau lòng. Ông ta hiểu sai mệnh lệnh nhà vuanên đã chặt đầu những tu sĩ không chiu thực hiện lệnhvua. Hay tin nầy, vua rất đau lòng. Ngài đã cho thỉnh trưởnglão Mục Kiền Liên Tư Đế Tu về Hoa Thị để thỉnh ý. Saunhiều lần từ chối không được, trưởng lão Mục KiềnLiên Tư Đế Tu phải nhận lời đi đến gặp vua để cốvấn cho nhà vua về vấn đề nầy. Vua hỏi xem mình có mangtội sát hại các tu sĩ do hành động của viên quan đại thầncủa mình. Trưởng lão trả lời rằng nếu không chủ ý xấuthì không có tội. Như thế mọi thắc mắc trong lòng nhà vuađược giải tỏa. Đoạn trưởng lão Mục Kiền Liên Tư ĐếTu còn giảng giải cho nhà vua về chánh pháp của Đức Phậttrong một tuần lễ. Chính nhờ vậy mà nhà vua thấy đượcnhững sai lầm của ngoại đạo cũng như những vị Tăng giảhiệu, nên ngài cho triệu tập Hội Nghị Kết Tập Kinh Điểnlần thứ ba—Moggaliputta-Tissa was born in a Brahmin family and learnedthe three Vedas before he was sixteen. He was, however, won over to thenew faith by Thera Siggava and very soon attained to Arhatship with allits attendant supernatural powers. It was under his influence that theEmperor made over to the Buddhist Order his son Mahinda and daughter Sanghamitta.Later, these two crossed to Ceylon and converted the whole island to theBuddhist faith. With the conversion of King Asoka, the material prosperityof the monasteries grew by leaps and bounds and the monks lived in easeand comfort. The heretics who had lost their income were attracted by theseprospects to enter the Buddhist Order. They continued, however, to adhereto their old faiths and practices and preached their doctrines insteadof the doctrines of the Buddha. This caused extreme distress to Thera Moggaliputta-Tissawho retired to a secluded retreat on Mount Ahoganga and stayed there forseven years. The number of heretics and false monks became far larger thanthat of the true believers. The result was that for seven years no Uposathaor retreat (Pavarana) ceremony was held in any of the monasteries. Thecommunity of the faithful monks refused to observed these festivals withthe heretics. King Asoka was filled with distress at this failure of theSangha and sent commands for the observance of the Uposatha. However, agrievous blunder was committed by the Minister who was entrusted with thistask. His misunderstood the command and beheaded several monks for theirrefusal to carry out the King’s order. When this sad news reported toAsoka, he was seized with grief and apologized for this misdeed. He theninvited Maggaliputta Tissa to go to Pataliputta to advise the king on thisissue. After several unsuccessful attempts, the elder Tissa was prevailedupon to consent to go to Pataliputta. The king asked Tissa whether he wasguilty of the murder of the monks through his Minister. The Thera answeredthat there was no guilt without evil intent. This satisfied the scruplesof the King. Then the Elder expounded the holy teachings of the Buddhafor a week that helped the king see the misguided beliefs brought to Buddhismby heretics and false monks. Therefore, the king convened the Third Council—SeeBuddhist Councils (3) in Chapter 5.

IX.Mahadeva (skt): Ma Ha Đề Bà—Đại Thiên—Tên một vị tỳkheo trong Đại Chúng Bộ, xuất gia khoảng 100 năm sau ngày Phậtnhập diệt. Trong lần kiết tập kinh điển lần thứ ba, khoảng100 năm sau ngày Đức Phật nhập diệt, một Tăng sĩ tên ĐạiThiên từ Paliputra đã đưa ra lập luận A la hán vẫn chưathoát khỏi si mê, vẫn còn bị cám dỗ, vẫn còn bị xuấttinh về đêm, và vẫn còn hoài nghi Phật pháp. Ông cũng bịcoi như là người theo hùa với Vua A Dục định giết hếtnhững người trong Thượng Tọa Bộ; tuy nhiên người đứngđầu trong Thượng Tọa Bộ chạy thoát được sang xứ Ka ThấpDi La—An able suppporter of the Mahasanghikah, whose date is given asabout a hundred years after the Buddha’s death. In the Third BuddhistCouncil, about 100 years after the Buddha’s death, a monk form Pataliputranamed Mahadeva put forward that an arhat is not yet free from ignorance;he is still subject to temptation, can have nocturnal emissions, and doubtsconcerning the teaching. He is also described as a favourite of Asoka,with whom he is associated as persecutor of the Sthavirah; however, thehead of which escaped into kashmir.

X.Parsva: Hiếp Tôn Giả (Worship of the Ribs)—Ông là một cư dânvùng Trung Ấn. Ông là người chủ tọa Đại hội kiết tậpkinh điển lần thứ tư. Theo Giáo Sư Soothill trong Trung Anh PhậtHọc Từ Điển, Hiếp Tôn Giả (thời Đường bên Trung Quốcgọi Ngài Parsva là Hiếp Tôn Giả) là vị Tổ thứ mười củaẤn Độ, là thầy của Tổ Mã Minh, người đã thệ nguyệnkhông nằm cho đến khi nào thấu triệt chơn lý trong Tam TạngKinh Điển. Trong ba năm, Ngài đã cắt đứt mọi dục vọngtrong Dục giới, sắc giới, và Vô sắc giới, đạt đượclục thông và Bát Ba La Mật. Ngài thị tịch khoảng năm 36trước Tây Lịch—A native of Central India. He is also said to havepresided over the Fourth Council. According to Professor Soothill in TheDictionary of Chinese-English Buddhist Terms, Parsva was the tenth patriarch,the master of Avaghosa, previously a Brahman of Gandhara, who took a vowto not lie down until he had mastered the meaning of the Tripitaka, cutoff all desire in the realms of sense, form, and non-form, and obtainedthe six supernatural powers and the eight paramitas. This he accomplishedafter three years. He died around 36 B.C—See Twenty eight Indian Patriarchsin Chapter 19.

XI.Santaraksita (680-740): Tịch Hộ—Một nhà triết học Phật giáongười Ấn Độ, được nổi tiếng nhờ tác phẩm “ToátYếu về Chân Lý.” Ngài được truyền thống Phật giáo TâyTạng xem như là một trong ba người đã giúp thiết lập Phậtgiáo trên xứ tuyết này. Cùng với Trisong Detsen và Padma Sambhava,ngài đã thành lập tự viện đầu tiên ở Tây Tạng tên làSamye. Có thể nói rằng Tịch Hộ và Liên Hoa Giới tiêu biểucho sự dung hợp của học thuyết Trung Quán và Duy Thức Luận,và vì thế không thể gọi họ thuộc phái Trung Quán chân chính.Ông viết bộ Chân Lý Khái Yếu, trong khi một đệ tử nổitiếng của ông là Liên Hoa Giới đã viết bộ “Minh GiảiChân Lý Khái Yếu” để chú giải một cách tinh tường vềchân lý khái yếu của ông—An Indian Buddhist philosopher, whosebest-known work is the “Compendium of Truth” (Tattva-samgraha). Heis credited in Tibetan tradition with having been one of the three peoplewho helped to establish Buddhism in the Land of the Snows. Together withTrisong Detsen and Padma Sambhava, he established the first monastery inTibet, named Samye. It may be said in passing that Santaraksita and Kamalasilarepresent a syncretism of the Madhamaka system and Vijnanavada and cannotbe strictly called Madhyamikas. Santaraksita flourished in the eighth century.His great work was Compendium of Reality (Tattvasamgraha), while his celebrateddisciple, Kamalasila, wrote a “Learned Commentary on the Comppendiumof Reality (Tattvasamgraha-Panjika).

XII.Santideva(skt): Tịch Thiên—Shantideva (p).
(A)Tổng quan về Tịch Thiên—An overview of“Santideva”:Từ Phạn ngữ có nghĩa là “Chúa tể hòa bình.” Đại diệnMahayana của phái Madhyamika, một nhà sư tại trường Đạihọc Phật giáo Nalanda vào thế kỷ thứ VII hay VIII sau TâyLịch. Những tác phẩm của Ngài còn lưu lại là Shikshamuchchaya(Sưu Tập Các Thuyết Giảng) và Bodhicharyavatara (Đại GiácNhập Môn). Trong Sư tập thuyết giảng, Santideva đã mô tảsự tiến triển của một Bồ Tát từ đạt được tinh thầnđại giác đến khi đạt được trí năng phải tuân thủ “sáuhoàn thiện” (six paramitas). Đây là một sách chỉ nam cho giớixuất gia. Quyển Đại giác nhập môn, giáo khoa nhập môn chonhững Phật tử tại gia và những người mới tu tập—ASanskrit term for “Lord of Peace.” An Indian Buddhist philosopher associatedwith the Madhyamaka school, best known for two works, Entering the Pathto Awakening (Bodhicaryavatara) and Compendium of Studies (Siksa-samuccaya).A representative of Madhyamika school of the Mahayana, a monk at the monasticuniversity Nalanda during the 7th or 8th centuries AD. He was the authorof two surviving works, the Shikshamuchchaya (Collection of Rules) andBodhicharyavatara (Entering the Path of Enlightenment). In Shikshamuchchaya,Santideva described the path of development of a bodhisattva from firstarising of the thought of enlightenment (bodhicitta) to the attainmentof the transcendental knowledge (prajna), practitioners must cultivatethe six perfections (paramitas). In Bodhicharyavatara, it is conceivedprimarily as an introduction for lay persons and beginners.
(B)Tịch Thiên và trường phái Qui Mậu Luận Chứng—Santidevaand the Prasangika School: Tịch Thiên là một trong những cộttrụ vĩ đại của trường phái Qui Mậu Luận Chứng. Ngàiđã xuất hiện và nổi tiếng vào thế kỷ thứ 7 sau Tây Lịch.Theo Taranathaas thì Tịch Thiên là con của vua Đức Khải trịvì xứ Saurastra, và là người thừa kế chánh thống ngai vàng.Khi còn là một Thái tử, tên ngài là Tịch Khải. Vì chấpnhận một cách sâu sắc tư tưởng Đại Thừa nên ngài đãphát tâm để lìa bỏ vương quốc và đã đến xuất gia vớiTu Viện Na Lan Đà và sau đó ngài được biết với tên TịchThiên. Những tác phẩm của ngài gồm có “Học Xứ Yếu Tập(Siksa-samuccaya) và “Nhập Bồ Đề Hành Luận” (Bodhicaryava-tara).Trong bộ Học Xứ Yếu Tập, ngài đã đề cập đến rấtnhiều kinh điển Đại Thừa vô cùng quan trọng, tất cả gồm97 loại, những loại sách này hiện nay đã hoàn toàn bị thấttruyền. Trong Nhập Bồ Đề Hành Luận, ngài đã nhấn mạnhđến việc tu tập Bồ Đề Tâm. Ngài là một thi hào vĩ đạinhất trong học phái Trung Quán. Hầu hết những tác phẩm củangài đều biểu hiện sự kết hợp đẹp đẽ giữa thi cavà triết học. Ngài là tín đồ của phái Qui Mậu Luận Chứngvà đã phê bình phái Duy Thức một cách mạnh mẻ—Santidevawas one of the great pillars of the Prasangika School. He flourished inthe seventh century. According to Taranathaas, Santideva was the son ofKing Kalyanavarman of Saurastra and was the rightful successor to the throne.As a prince he was known as Santivarman. He was so deeply inspired by Mahayanicideal that he fled away from his kingdom and took orders with Jaideva inNalanda after which he was known as Santideva. He was the author of Siksa-samuccayaand Bodhicaryava-tara. In the former, he has referred to many importantMahayana works, nearly 97, which are now completely lost. In the Bodhicaryavatarahe has emphasized the cultivation of Bodhicitta. He was the greatest poetof the Madhyamaka school and his work evokes a beautiful fusion of poetryand philosophy. He was the follower of the Prasangika method and has criticizedVijnanavada vehemently.

XIII.Tilopa(988-1069): Một vị sư người Ấn, tên của ông lấy từ việcông làm nghề ép hạt mè để lấy dầu. Theo truyền thốngKagyupa, ông thọ nhận giáo pháp trực tiếp từ Đức ĐạiNhật Như Lai và sau này truyền lại cho Naropa, một đại đệtử của ông. Ông là một trong những vị thầy nổi tiếngnhất thuộc truyền thống Đại Ấn. Ông tổng hợp các hệthống “mật chú” khác nhau của Phật giáo Ấn Độ và truyềnnhững phương pháp này lại cho đệ tử của mình là Naropa.Về sau các phương pháp này được truyền bá khắp Tây Tạng,đặc biệt là trong trường phái Kagyupa—Indian monk whose namederives from his reported occupation of pressing sesame seeds to extracttheir oil. According to Kagyupa tradition, he received teachings directlyfrom Vajradhara Buddha and later transmitted to Naropa, his main student.He was one of the most famous masters and the first human teacher in theMahamudra lineage. He unified various Tantric systems of Indian TantricBuddhism and transmitted these methods to his student, Naropa. Later, theseteachings were propagated in Tibet, especially in the Kagyupa school.

XIV.Yasha(skt): Da Xá—Trong các vị cao Tăng thời cổ đại có cả thảy3 vị mang tên Da Xá, vị thứ nhất là đệ tử thứ sáu củaĐức Phật, vị thứ nhì là đệ tử của Ngài A Nan, và vịthứ ba, sanh sau khi Đức Phật Thích nhập diệt chừng 100 năm,người đã khuyến khích vua A Dục xây 8 vạn bốn ngàn thápPhật ở miền Bắc Ấn Độ, triệu tập 700 vị Thánh Tăng,và liên hệ đến việc kết tập kinh điển lần thứ hai.Yasha chính là vị sưđã tố giác sư sãi Vaishali đãnhận vàng bạc, bất thời thực, cũng như uống rượu trongtự viện. Chính Yasha đã được sự ủng hộ của các sưtrưởng lão trong việc kết tội các sư Vaishali trong kỳ đạihội lần hai—In the old times, there were three persons with the samename: Yasha, the first person was the sixth disciple of the Buddha, thesecond person was a disciple of Ananda, and the third person, who was bornabout 100 years after the Buddha’s nirvana, is said to encourage kingAsoka to build 84,000 Buddha stupas in northern India, convene (summon)700 arhat saints (monks), and play an importantpart in connectionwith the second synod. He accused Vaishali monks of accepting gold andsilver from lay followers, taking food at the wrong time, and drinkingalcohol in the temple, etc. He was the one who got support from other seniormonks to convoke the second council in Vaishali around 386.

(C)Những Vị Có Công Duy Trì
PhậtGiáo Tại Trung Hoa
Thosewho had helped maintaining
BuddhismIn China

I.Bát Lạt Mật Đế: Pramiti (skt)—Paramiti (skt)—Một vị Tăngngười Trung Ấn, đến Quảng Châu dưới thời nhà Đường.Ngài đã dịch bộ Kinh Thủ Lăng Nghiêm sang Hoa ngữ vào khoảngnăm 705 sau Tây Lịch—A monk from Central India, came to Kuang-Chou,China during the T’ang dynasty. He translated the Surangama Sutra intoChinese around 705 A.D.

II.Bồ Đề Lưu Chi: Bodhiruci (skt)—Bồ Đề Lưu Chi thứ nhất—Mộtnhà sư, cũng là một nhà dịch thuật kinh điển, đến LạcDương, Trung quốc vào cuối đời Bắc Nguỵ hoặc đầu đờinhà Đường, vào khoảng năm 508 sau Tây lịch. Ông đã cùngvới cùng với Ratnamati, Buddhasanta và vài người khác dịchbộ Dashabhumika Sutra sang tiếng Hoa. Theo lịch sử Phật GiáoTrung Quốc, thì vị Bồ Đề Lưu Chi nầy đã lập ra ThậpĐịa Tông (Dasabhumika school)—The first BodhiruciNorth Indian Buddhistmonk, also a sutra translator, who came to Lo-Yang, China during the endof Wei or early T’ang dynasty, around 508 AD. Together with Ratnamati,Buddhasanta and some other people, he translated Sahambhumika sutra intoChinese. According to Chinese Buddhist legends, he was the one who foundedthe Dasabhumika school.

III.Bồ Đề Lưu Chi: Giác Ái (571-727)—Bồ Đề Lưu Chi thứ hai,một vị Tăng thuộc miền Nam Ấn vào thế kỷ thứ bảy. Vàothời gian đầu triều đại nhà Đường, nhiều tu sĩ Phậtgiáo nổi danh từ Tích Lan và Ấn Độ đến Trung Hoa. Bồ ĐềLưu Chi thuộc số tu sĩ Phật giáo ngoại quốc đến ở lâudài tại Trung Hoa. Tên Ngài là Đạt Ma Lưu Chi (Dharmaruci), đượcVũ Hậu cho đổi thành Bồ Đề Lưu Chí. Ông đã dịch 53 bộkinh vào những năm 693-713 sau Tây Lịch—The second Bodhiruci,a monk from Southern India in the seventh century. During the days of theearly T’ang dynasty, many renowned Buddhist monks came to China fromCeylon and India. Bodhiruci was among those foreign Buddhists who cameto settle permanently in China. His original name was Dharmaruci. His namewas changed to Bodhiruci by the order of the Empress Wu. He translated53 works in 693-713 A.D. He passed away in 727, at the age of 156.

IV.Ca Diếp Ma Đằng: Kasyapa-Matanga (skt)—Nhiếp Ma Đằng—TrúcNhiếp Ma Đằng—Một vị sư người miền Trung Ấn Độ. ThờiHán Minh Đế, vua sai một phái đoàn sang Ấn Độ cầu phápđã gặp sư. Sư cùng với ngài Trúc Pháp Lan mang tượng Phậtvà kinh điển về Lạc Dương khoảng năm 67 sau Tây Lịch. Theotruyền thống hoằng hóa, đây là vị Tăng Ấn Độ đầu tiêncùng với Gobharana đến Trung quốc. Tại đây họ đã cùngdịch bộ kinh Tứ Thập Nhị Chương vào khoảng năm 67 sau TâyLịch—The monk who with Gobharana, of Central India, or Dharmaraksa,i.e. Chu-Fa-Lan, according to Buddhist statements, brought images and scripturesto China with the commissioners sent by Ming-Ti, arriving in Lo-Yang inaround 67 A.D. According to tradition the first official Indian monk, alongwith Gobharana, to arrive in China around 67 A.D. They translated the Sutraof the Forty-Two Sections.

V.Chân Đế Tam Tạng (499-569): Paramartha Tripitaka Master—Name ofa famous monk from West India—Chân Đế Tam Tạng, tên của mộtvị sư nổi tiếng người miền Tây Ấn Độ.
(A)Tiểu sử của Chân Đế—Paramartha’s Biography: Theo Khởi TínLuận, Chân Đế Tam Tạng là một nhà sư, nhà dịch thuậtnổi tiếng, từ vùng Tây Ấn. Chân Đế quê quán ở Ujjayini,có lẽ quan hệ đến đại học Valabhi, vùng Tây Ấn Độ,một trung tâm học Phật. Khoảng năm 546-548, một hoàng đếTrung Hoa cử một phái đoàn đến Ma Kiệt Đà để thỉnh cầuvua nước nầy cử một học giả có thể giảng dạy giáolý đạo Phật cho Trung Hoa. Chân Đế đã theo phái đoàn đếnTrung Hoa để đáp lại lời thỉnh cầu. Ông mang theo một sốlớn kinh Phật và đi bằng đường biển đến Nam Kinh vàonăm 548. Theo mong ước của nhà vua, trong khoảng thời gian đóđến năm 557, ông đã dịch 70 tác phẩm. Người ta nói ôngcũng có viết trên 40 tác phẩm khoảng 200 quyển. Đối tượngchính của ông là truyền bá học thuyết A Tỳ Đạt Ma CâuXá và Nhiếp Đại Thừa Luận. Hoạt động văn học của ônghình như đã gây ảnh hưởng lớn trong tâm hồn Trung Hoa thờibấy giờ; điều nầy được minh chứng với nhiều đồ đệxuất sắc dưới trướng. Chân Đế thiết lập Câu Xá Tôngvà hoạt động của ông chỉ có thể so sánh được với CưuMa La Thập ở thế hệ trước và Huyền Trang ở thế hệ sauông mà thôi. Sau đó ông bị buộc phải đi lang thang nhiềunơi do những biến động chánh trị ở Trung Hoa. Ông sốngnhững năm cuối đời trong ẩn dật. Năm 569 ông thị tịch,thọ bảy mươi mốt tuổi—According to the Awakening of Faith,Paramartha was a famous translator, a monk from Ujjayini, western India,probably connected with Valabhi University. Around 546-548 A.D., a Chineseemperor had sent a mision to Magadha to request the king of that countryto send a scholar who could teach the Buddha-Dharma to China. Paramarthaaccompanied the Chinese envoys back to China in response to this request.He carried with him a large collection of Buddhist texts and travelledby the sea route, arriving in Nanking in 548 A.D. In accordance with thedesire of the emperor, from that time to 557, he translated seventy texts.He is also said to have written more than forty works, altogether amountingto two hundred Chinese volumes. His chiefly object was to propagate thedoctrine of Abhidharma-kosa and the Mahyana-samparigraha. His literaryand religious activity seems to have greatly influenced the Chinese mindof the time as is testified by the fact that he had many able pupils underhim. Paramartha founded the realistic Kosa School and his activities canbe compared only with Kumarajiva who came before him and Hsuan-Tsang whocame after him. Thereafter he was compelled to wander from place to placeon account of political upheavals in China. The last years of his lifewere spent in solitude and retirement and he died in 569 A.D.atthe age of seventy-one.
(B)Sự nghiệp dịch thuật các kinh sách tiếng Phạn và hoằngpháp của Chân Đế—Paramartha’s career of translating Sanskrittexts and propagation of Buddhism: Ông đến Trung Quốc khoảng nhữngnăm 546 hay 548, nhưng thời đó nước Tàu quá loạn lạc nênngài phải trở về Ấn bằng đường biển, tàu của ngàibị trôi dạt vào Quảng Châu. Tại đó ngài dịch hơn 50 bộkinh. Tại đây ngài trở thành một trong bốn nhà dịch thuậtlớn của Phật giáo Trung hoa gốc người Ấn, ngài đã dịchra tiếng Trung hoa nhiều tác phẩm, đặc biệt là những tácphẩm của trường phái Du Già như Toát Yếu Đại Thừa củangài Vô Trước, Nhị Thập Kệ của ngài Thế Thân, A Tỳ ĐạtMa Câu Xá (Kho Tàng Vi Diệu Pháp), và, Vimsatika của Vasubandhu,và kinh Kim Cang. Ông cũng phiên dịch 64 tác phẩm chia làm 278quyển. Theo Giáo Sư Bapat trong Hai Ngàn Năm Trăm Năm Phật Giáo,sự nghiệp dịch thuật các kinh sách tiếng Phạn của ChânĐế có thể chia làm hai phần—He reached China around 546 or 548,but the country was so disturbed that he set offto return by sea;his ship was driven back to Canton, where he stayed and translated somefifty works. Here he became one of the four great translator in ChineseBuddhism, particularlly of Yogacara texts, including Asanga’s Compendiumof the Great Vehicle (Mahayana-samgraha) and Vasubandhu’s Twenty Verses(Vimsatika) and Treasury of Higher Doctrine (Abhidharma-Kosa), and theDiamond Sutra. In all he is credited with translating 64 works in 278 volumes.According to Prof. Bapat in the Twenty-Five Hundred Years of Buddhism,Paramartha’s career of translating Sanskrit texts can be divided intotwo parts:
1)Thời kỳ từ năm 548- đến 557—The period from 548 to 557 A.D.:Trong thời kỳ nầy ông đã dịchkhoảng 10 tác phẩm,trong đó 6 cuốn còn tồn tại cho đến năm 730—During thisperiod he translated about 10 works, of which six were still in existencein 730 A.D..
2)Thời kỳ từ năm 557 đến 569 sau Tây Lịch—The period from557 to 569 A.D.: Trong thời kỳ nầy ông đã dịch một số lớnkinh sách dưới sự bảo trợ của triều đình nhà Hán vàtiếp tục công việc của của mình cho đến khi thị tịchnăm 569—During this period, he worked on numerous texts under the patronageof the Han dynasty and continued his labours till he died in 569 A.D.
(C)Các bản dịch từ Phạn ra Hán của Chân Đế—Paramartha’stranslation of Sanskrit texts:
1)Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa: Vajracchedika-Prajnaparamita-sutra.
2)Nhiếp Đại Thừa Luận: Mahayanasamparigraha-sastra.
3)Trung Biện Phân Biệt Luận: Madhyantavibhaga-sastra.
4)A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Chính Luận: Abhidharma-kosa-vyakhya-sastra.
5)Nhiếp Đại Thừa Chính Luận: Mahayanasamparigraha-sastra-vyakhya.
6)Luật Nhiếp Minh Liễu Luận: Vinaya-dvavimsatiprasannartha-sastra.
(D)Chân Đế Tam Tạng lập ra Nhiếp Luận Tông ở Trung Hoa—Paramarthaestablished the Mahayanasamparigraha-sastra school (She-Lun-Tsung) in China:Chân Đế lập ra Nhiếp Luận Tông (Mahayanasampari-graha-sastraschool) tại Trung Hoa. Trường phái nầy dựa trên nền tảngcủa nhiều kinh sách tiếng Phạn được ông dịch ra chữ Hán.Quan trọng nhất là bộ Nhiếp Đại Thừa Luận (Mahayanasamparigraha-sastra),kinh sách căn bản của trường phái nầy. Trường phái nầyđã có những môn đệ xuất sắc và chiếm số đông trongcác học giả Phật giáo Trung Hoa suốt một thời gian khoảng80 năm. Tuy nhiên, cũng giống như bao trường phái khác ở TrungHoa, trường phái nầy cũng phải chịu những gò bó chung vềchính trị, những suy thoái của chùa chiền, và mất đi sựhậu thuẫn của dân chúng. Bên cạnh đó, sự phổ biến củaPháp Tướng Tông (Dharmalaksana school) do Huyền Trang đề xướngcũng có thể xem là một trong những lý do làm suy yếu NhiếpLuận tông. Chân Đế coi trọng sự cần thiết phải nghiêncứu Nhiếp Đại Thừa Luận, nhưng Huyền Trang thì lại dịchbộ Thành Duy Thức Luận (Vidyamatrasiddhi-sastra) và nhấn mạnhtrên sự cần thiết phải nghiên cứu một số kinh điển chọnlọc gồm sáu cuốn kinh và mười bộ luận, kể cả NhiếpĐại Thừa Luận. Do đó Nhiếp Luận tông do Chân Đế sánglập đã bị hòa nhập vào Pháp Tướng tông của Huyền Trang.Trường phái nầy được gọi là phái ‘Tân Dịch Thuật’(New Translation Method), còn phái Nhiếp Luận tông do Chân Đếsáng lập ra được gọi là ‘Cựu Dịch Thuật.’ Mặc dùbị hòa nhập vào một trường phái khác, nhưng Nhiếp Luậntông vẫn còn là một tổ chức Phật giáo Trung Hoa tồn tại—Thisschool was based on many Sanskrit texts translated by him , the most importantbeing the Mahayanasamparigraha-sastra, a basic text of that school. Thisschool had eminent disciples and prevailed among Buddhist scholars in Chinafor about 80 years. However, like other Buddhist schools in China, thisschool, too, suffered from general political restrictions, the deteriorationof temples, and the loss of popular support. Besides these conditions,the popularity of the Dharmalaksana school established by Hsuan-Tsang mightalso be consideredone of the reasons for the decline of the She-Lun-Tsung.Paramartha greatly emphasized the necessity of studying the Mahayanasamparigraha-sastra,but Hsuan-Tsang, in his turn, translated the Vidy amatrasiddhi-sastra andlaid emphasis on the necessity for the studyof selected texts, whichconsist of six sutras and eleven sastras and include the Mahayanasamparigraha-sastra.Thus the Mahayanasamparigraha-sastra school established by Paramartha wasabsorbedby the Dharmalaksana school founded by Hsuan-Tsang. Thisschool was called the New Translation Method while the She-Lun-Tsung foundedby Paramartha was known as the Old Translation Method. In spite of thefact that the She-Lun-Tsung was absorbed by another school, it remainsa permanent Chinese Buddhist institutionin China.

VI.Đàm Ma Nan Đề: Dharmanandi (skt)—Một vị Tăng nổi tiếngcủa Ấn Độ (Tàu dịch là Pháp Hỷ) vào khoảng những năm400 sau Tây Lịch, đến Trường An, Trung Quốc, dịch bộ KinhA Hàm—A noted Indian monk around 400 A.D., came to Chang-An, China,translated the Agama Sutra.

VII.Fo-T’u-Teng(232-348): Tên của một vị Tăng vùng Trung Á, định cư tạithành Lạc Dương, tại đây ông làm quốc sư cho vua Shih-lo,về sau này tới nhà Châu. Người ta tường thuật rằng ônglà người chịu trách nhiệm cho việc thiết lập giáo hộiTỳ Kheo Ni đầu tiên tại Trung Hoa—Name of a Central Asian monkwho settled in Lo-Yang, where he became an advisor to the emperor Shih-loof the Later Chou. He is reported to have been responsible for establishingthe order of Chinese nuns.

VIII.Samôn Giác Hiền: Buddhabhadra (359- 429)—Phật đà bạt đà la—BồĐề Lưu Chi—Phật Hiền—Một vị Tăng thuộc truyền thốngThuyết Nhất Thiết Hữu Bộ. Theo truyền thuyết Phật giáo,ông là dòng dõi của một người bác của Phật, người đãdu hành sang Trung Hoa vào năm 409 và trở thành một nhà phiêndịch các giáo điển Phật giáo Ấn Độ. Ngài từ Ca Tỳ LaVệ đến Trung Quốc, nơi đây ngài sáng tác một số tác phẩmPhật Giáo. Với sự cộng tác của sư Pháp Hiển, ông đãdịch từ Phạn ra Hoa ngữ những tác phẩm quan trọng củatrường phái Đại thừa. Tác phẩm quan trọng nhất của ngàilà bản dịch sang Hán văn của Kinh Hoa Nghiêm vào năm 418 sauTây lịch, căn bản triết lý của trường phái Hoa Nghiêm—AKashimiri monk belonging to the Sarvastivada tradition. According to theBuddhist tradition, he was a descendant ofthe Buddha’s uncle,who came to China in 409 from Kapilavastu in around 408 A.D., here he composedseveral Buddhist works. He became one the most important translators ofIndian Buddhist texts at that time. Together with Fa-Hsien, he translatedimportant works of Mahayana Sanskrit literature into Chinese. The mostimportant of his works was a Chinese translation of the Avamtamsaka Sutrain 418 A.D., the philosophical basis of the Hua-Yen school.

IX.Sư Huệ Lâm—Hui Lin Master: Thích Huệ Lâm chùa Tây Minh đờinhà Đường, đệ tử của một nhà sư Ấn Độ là ngài BấtKhông. Ông trước tác bộ Tự Điển Phật Giáo Huệ Lâm ÂmNghĩa (100 quyển), dựa vào những trước tác của các ngàiHuyền Ưng, Huệ Uyển, Khuy Kỳ, và Vân Công. Ông bắt đầucông trình vào năm 788 và hoàn thành vào năm 810 sau Tây Lịch.Ông còn được người đời gọi là Đại Tạng Âm Nghĩa ĐạiSư—Hui-Lin, a disciple of the Indian monk Amogha (Bất Không). Hemade the dictionary of sounds and meanings of Buddhist words and phrases,based upon the works of Hsuan-Ying, Hui-Yuan, K’uei-Chi, and Yun-Kung,in 100 books. He began the work in 788 AD and ended it in 810 AD. He isalso called the Great Treasure of sounds and meanings.

X.Na Đề: Punyopaya (skt)—Nadi (skt)—Bố Như Điểu Phạt Da—BốNhư Na Đề—Một vị sư nổi tiếng miền Trung Ấn, đượckể lại như là vị đã mang sang Trung Hoa 1.500 kinh sách Đạivà Tiểu Thừa vào khoảng năm 655 sau Tây Lịch. Đến năm 656ông được gửi sang đảo Côn Lôn trong biển Nam Hải (có lẽlà Côn Sơn của Việt Nam) để tìm một loại thuốc lạ—Anoted monk of central India, said to have brought over 1,500 texts of theMahayana and Hinayana schools to China 655 AD. In 656 AD he was sent toPulo Condore Island in the China Sea for some strange medicine.

XI.Thực Xoa Nan Đà—Saksananda (skt): Siksananda (skt)—Thí KhấtXoa Nan Đà—Một vị Sa Môn người nước Vu Điền đã giớithiệu một mẫu tự mới vào Trung Quốc khoảng năm 695 sauTây Lịch; ông được Vũ Hậu mời đến Lạc Dương (? cùngngài Bồ Đề Lưu Chi) dịch 19 bộ kinh, tức là 107 quyển KinhHoa Nghiêm, sau nầy 16 dịch phẩm khác cũng được người taxem là của ông (ông thị tịch lúc 59 tuổi, hỏa táng xongcái lưỡi vẫn không cháy)—A sramana of Kustana (Khotan) who in695 A.D. introduced a new alphabet into China and translated nineteen works;the Empress Wu invited him to bring a complete copy of the Hua-Yen sutrato Lo-Yang; sixteen works in the present collection are assigned to him.

(D)Những Vị Có Công Duy Trì
PhậtGiáo Tại Các Nước Khác
Thosewho had helped maintaining
BuddhismIn Other Countries

I.Bu Ston (1290- 1364): Tên của một trong những học giả Phậtgiáo nổi tiếng của Phật giáo Tây Tạng trong buổi ban sơ,người đã viết bộ lịch sử Phật giáo rất có ảnh hưởngở Ấn Độ và Tây Tạng, với nhan đề “Lịch Sử PhậtPháp.” Người ta tin rằng ông là tác giả kết tập bộ KinhĐiển Tây Tạng. Bộ này chia làm 2 phần: phần dịch thuậtgiáo pháp, và phần dịch thuật luận tạng. Phần dịch thuậtgiáo pháp gồm 108 quyển luật, kinh điển Đại Thừa, và Mậtchú. Phần thứ hai gồm 225 quyển bao gồm luận triết lý vàbình luận. Bản chánh của phần kết tập này được tàngtrữ trong tu viện Shalu, và trở thành bản gốc của bộ kinhđiển Tây Tạng—Name of one of the great early scholars of TibetanBuddhism, who wrote an influential history of Buddhism in India and Tibet,entitled “History of the Dharma.” He is also credited with editingthe first compilation of the Tibetan Buddhist Canon. This is divided intotwo volumes: Translations of Teachings, and Translations of Treatises.The first comprises of 108 volumes of Vinaya texts, Mahayana sutras, andTantras. The second has 225 volumes and includes philosophical treatisesand commentaries. A master copy of this compilation was stored in ShaluMonastery, and it became the basis for all later editions of the canon.

II.Gampopa Sonam Rinchen (1079-1153): Đệ tử của Milarepa, ngườitrở thành Tăng sĩ sau khi vợ ông qua đời. Tên “Gampopa”chỉ vùng tên Gampo, nơi mà ông đã tu tập thiền định trongmột vài năm. Ông cũng còn được biết đến với tên “Bácsĩ Takpo.” Khởi đầu ông thọ giới với một vị sư trongtrường phái Kadampa, và sau đó ông theo học với nhiều vịthầy khác nhau, kể cả Milarepa. Từ Milarepa, ông nhận đượcnhững giáo huấn về “Lục Pháp Naropa” và đại ấn. Tuynhiên, không giống với Milarepa, ông vẫn sống đời Tăng sĩvà sau khi thầy thị tịch, ông tổ chức lại truyền thốngKagyupa, phát triển một bộ phận của tự viện mà trướcđây chủ yếu là của Mật giáo tại gia. Tác phẩm nổi tiếngnhất của ông là “Bảo Châu Trang Nghiêm Giải Thoát,” tổnghợp giáo thuyết của hai trường phái Kadampa và Kagyupa—Studentof Milarepa, who became a monk following the death of his wife. The name“Gampopa” is a reference to the area of Gampo, where he practiced meditationfor a number of year. He is also known as “The Doctor of Takpo.” Originallyordained as a monk in the Kadampa tradition, and later he studied witha number of teachers, including Milarepa. From him he received instructionsin the “six dharmas of Naropa” and Mahamudra. Unlike Milarepa, however,he remained a monk, and following his teacher’s death he began reorganizethe Kagyupa tradition, developing a monastic component to what had previouslybeen mainly a lineage of lay tantrics. His best-known work is the “JewelOrnament of Liberation,” which synthesizes the teachings of Kadampa andKagyupa.

III.Jamgon Kongtrul Lodro Taye: Một trong những nhân vật có ảnh hưởngnhất của Phật giáo Tây Tạng vào thế kỷ thứ 19, ngườiđã sắp đặt cho việc thiết lập phong trào “Không Môn Phái,”tìm cách vượt qua chủ nghĩa môn phái bại liệt đang có ưuthế trong Phật giáo Tây Tạng thời đó. Ông sanh ra trong mộtgia đình theo truyền thống Bon-Po, và sau khi thọ giới ôngtheo học và nhận lễ quán đảnh với nhiều vị thầy từnhiều truyền thống khác nhau. Chính mắt ông đã chứng kiếnnhững hiệu quả tiêu cực của chủ nghĩa môn phái đang thịnhhành đương thời và ông đã tìm cách chống lại chủ nghĩanày bằng cách nhấn mạnh đến sự hòa hợp giữa các truyềnthống khác nhau. Ông viết một số tác phẩm quan trọng, trongđó có quyển “Bách Khoa của Tất Cả Tri Thức” và mộtsư tập tuyển chọn về kinh văn Mật chú có chủ đề “KhoTàng Mật Chú.”—One of the most influential figures of nineteenth-centuryTibetan Buddhism, who was instrumental in establishing the “Non-Sectarian”(Ris Med) movement, which sought to overcome the paralyzing sectariansimthat pervaded Tibetan Buddhism at the time. He was born into a Bon po family,and after taking monastic ordination he studied with, and received initiationfrom, a wide variety of teachers from different traditions, He witnessedfirst hand the negative effects of the prevailing sectarianism of the timeand sought to combat it by emphasizing the harmony of different Buddhisttraditions. He wrote a number of important works, including his Encyclopediaof All Knowledge (Shes bya kun khyab) and an electic collection of tantrictexts entitled Treasury of Secret Mantra (gDams ngag mdzod).

IV.Jamyang Khyentse Chogi Lodro (1896-1969): Một trong những vị thầyhàng đầu của phong trào Rime của miền Đông Tây Tạng, côngnhận sự tái sanh của Jamyang Khyentse Wangpo. Nhiều vị LạtMa hàng đầu của Tây Tạng vào thế kỷ 20 là học trò củangài, trong đó có các vị Dingo Khyentse Rinpoche, Kalu Rinpoche,và Sogal Rinpoche—One of the leading masters of the Ris Med (Rime) movementin Eastern Tibet, recognized as the activity reincarnation of “Jam cbyangsmkhyen brtse dbang po” (Jamyang Khyentse Wangpo 1820-1892). Many of theleading Tibetan lamas of the twentieth century were hisstudents,including Dingo Khyentse Rinpoche, Kalu Rinpoche, and Sogal Rinpoche.

V.Jangya Hutukhtu: Vị Lạt Ma tái sanh chính của Nội Mông. Vịđầu tiên là Ngawang Losang Choden. Vị tái sanh được thừanhận của ngài là Rolbe Dorje, tu học ở Tây Tạng và trởthành một trong những học giả có ảnh hưởng nhất đươngthời của trường phái Gelukpa—The major reincarnation lama (SprulSku) of Inner Mongolia. The first was Ngawang Losang Choden (1642-1714).His recognized reincarnation, Rolbe Dorje (1717-1786), studied in Tibetand became one of the most influential Gelukpa scholars of the time.

VI.Jetsun Dampa Hutukhtu: Vị Lạt Ma tái sanh chính của Phật giáoMông Cổ. Vị đầu tiên là Odur Gegen, tu viện của ông làErdini Juu, Khutukhtu là từ ngữ Mông Cổ tương đương với“Cao thượng” và “khôn ngoan.” Trụ sở của truyền thốngcủa những vị Lạt Ma này ở Da Khuree, mà bây giờ là UllanBator. Vị truyền thừa thứ 8 thị tịch năm 1924 sau khi phụcvụ trong chính phủ độc lập lâm thời của Mông Cổ sau khithu hồi nền độc lập từ tay của người Trung Hoa, nhưngkhi chế độ Cộng Sản tái thiết lập sự kiểm soát thìdòng truyền thừa này bị ngăn cấm, và như vậy hiện tạikhông có người kế vị được công nhận chính thức trênđất Mông Cổ. Dù vậy, vào năm 1991 Đức Đạt Lai Lạt Mađời thứ 14 công khai tuyên bố Jambel NamdrolChogi Gyeltsen làtruyền thừa thứ chín của truyền thống. Vị này đượcsanh ra trên đất Tây Tạng và theo học với 4 trường pháichính của Phật giáo Tây Tạng trước khi đào thoát khỏiTây Tạng theo sau cuộc xâm lăng và sáp nhập Tây Tạng vàotrung quốc vào năm 1959. Thân phận của ông như là vị truyềnthừa “rJe btsun giam pa”không được chính thức côngbố cho đến sau ngày chế độ Sô Viết sụp đổ.MôngCổ Thánh Liệt Truyện, trong một tác phẩm Trung Hoa có nhanđề “Meng-ku I-sheh,” truy ngược trở về 15 lần tái sanhtrước Odur Gegen và tuyên bố rằng dòng tái sanh đầu tiênđã sống trong thời Phật còn tại thế. Dòng thứ 15 là nhàsử học vĩ đại của Tây Tạng Taranatha. Việc nhận ra OdurGegen như là vị tái sanh của Taranatha được Đức Đạt LaiLạt Ma đời thứ 5, là ngàiNgawang Losang Gyatso tườngthuật đầu tiên—The major reicarnate lama of Mongolian Buddhism.The first was Odur Gegen (1635-1723), whose monastic seat was Erdini Juu.Khutukhtu is the Mongolian equivalent “noble” or “wise.” The traditionalseat of these lamas was Da Khuree, now known as Ullan Bator. The eighthmember of the lineage died in 1924 after serving as the country’s temporalruler following Mongolian independence from China, but when the Communistsre-established control the lineage was banned, and so there is currentlyno officially recognized successor in Mongolia. Despite this, in 1991 thefourteenth Dalai Lama publicly announced that Jambel Namdrol Chogi Gyeltsen(1929 -) is the ninth member of the lineage. He was born in Lhasa and studiedwith teachers from all four of the main orders of Tibetan Buddhism priorto fleeing the country in 1959 following the Chinese invasion and annexationof Tibet. His identity as the “rJe btsun giam pa” was not officiallyannounced until after the fall of the Soviet Union. Mongolian hagiography(Thánh Nhân Liệt Truyện), for example in a Chinese work entitled“Meng-ku I-sheh,” which traces the lineage back through fifteenth incarnationsprior to Odur Gegen and claims that the first of the series lived duringthe time of Sakyamuni Buddha. The fifteenth was the great Tibetan historianTaranatha (1575-1634). The identification of Odur Gegen as the reincarnationof Taranatha was reported first made by the fifth Dalai Lama, Ngawang LosangGyatso (1617-1682).

VII.Jnana-prabha(skt): Trí Quang—Light of knowledge—See Chapter 19.

VIII.KaluRinpoche (1905-1989): Vị Lạt Ma tái sanh của truyền thống KarmaKagyupa trong Phật giáo Tây Tạng, được công nhận là hóathân của Jamgon Kongtrul. Ông thọ giới vào năm 13 tuổi vớiSitu Rinpoche Karma Rangjung Gunkyab đời thứ 11. Ba năm sau đó,ông bắt đầu một cuộc nhập thất ba năm, ba tháng, ba ngày,và trong 13 năm sau cuộc nhập thất đó ông tu tập du già.Danh tiếng thiền sư của ông ngày càng lớn mạnh, và ôngđược bổ nhậm làm thiền sư tại Tu Viện Pelpung. Năm 1962ông rời Tây tạng và định cư tại Sonada, miền tây Bengal.Từ năm 1971 đế 1981 ông du hành một cách rộng rãi và thànhlập nhiều trung tâm thiền trên đất Mỹ và Âu Châu. Ônglà vị thầy Tây tạng đầu tiên hướng dẫn một nhóm thiềnsinh Tây phương trong truyền thống ba năm nhập thất tại Pháptừ năm 1976 đến năm 1980—Reincarnate lama of the Karma Kagyupalineage of Tibetan Buddhism, recognized as an “activity emanation”of Jamgon Kongtrul. He was ordained at age thirteen by the eleventh SituRinpoche Karma Rangjung Gunkyab. Three years later, he began a three-year,three-month, three-day retreat, and for the next thirteen years after thatengaged in yogic practice. His fame as a meditator grew, and he was appointedmeditation teacher at Pelpung Monastery. In 1962 he left Tibet and settledin Sonada in West Bengal. From 1971 to 1981 he traveled widely, and establishedmeditation centers in the U.S.A., Canada, and Europe. He was the firstTibetan teacher to lead a group of Western students in the traditionalthree-year retreat in France from 1976 to 1980.

IX.Kamalashila (700-750): Liên Hoa Giới—Một trong những đại biểuquan trọng của trường phái Trung Đạo vào thế kỷ thứ tám.Ông đã đóng vai trò cực kỳ quan trọng và có ảnh hưởngrất lớn trong việc phát triển trường phái nầy trên đấtTây Tạng. Ông là một trong những đệ tử nổi tiếng củaTịch Hộ. Có thể nói rằng Tịch Hộ và Liên Hoa Giới tiêubiểu cho sự dung hợp của học thuyết Trung Quán và Duy ThứcLuận, và vì thế không thể gọi họ thuộc phái Trung Quánchân chính. Liên Hoa Giới đã viết bộ “Minh Giải Chân LýKhái Yếu.” để chú giải một cách tinh tường về chânlý khái yếu—An Indian Buddhist master, one of the most importantrepresentatives of the Madhyamika school in the 8th century, author ofan influential meditation text entitled “Stages of Meditative Practice”(Bhavanakrama), which according to Tibetan tradition was written in responseto the quietist and antinomian (hai nguyên tắc đối nghịch nhau)teachings of Ho-Shang-Mo-Ho-Yen (Hva-shang Ma ha ya na—tib). Bu Stonreports that the two met at the “Council of Lhasa,” during which Kamalasilachampioned Indian gradualist paradigms (kiểu mẫu) of meditation, whileMo-Ho-Yen advocted a form of Ch’an practice. Kamalasila was declaredvictorious, but the defeated sent some Chinese assassins to Tibet, andthey killed Kamalasila by squeezing his kidneys. Kamalasila played an extremlyimportant role and had great influence on the development of the Madhyamikaschool in Tibet. He was one of the celebrated disciples of Santaraksita.It may be said in passing that Santaraksita and Kamalasila represent asyncretism of the Madhamaka system and Vijnanavada and cannot be strictlycalled Madhyamikas. Kamalasila wrote a “Learned Commentary on the Comppendiumof Reality (Tattvasamgraha-Panjika).

X.Longchen Rabjampa (1308-1364): Tên của một trong những vị thầycó ảnh hưởng nhất của trường phái Nyingmapa thuộc Phậtgiáo Tây Tạng, đặc biệt quan trọng với chi phái Đại Toàn(Dzogchen). Trong số những tác phẩm nổi tiếng nhất của ônglà những bộ “Thất Bảo Tạng” và bộ “Tứ Nội Yếu.”—Nameof one of the most influential masters of the Nyingmapa order of TibetanBuddhism, particularly important in the Dzogchen(great perfection)tradition. Among his best works are the “Seven Treasuries,” and the“Fourfold Innermost Essence.

XI.Machik Lapgi Dronma (1055-1145): Một đệ tử của Padampa Sangyevào thế kỷ thứ 11, người nổi tiếng về việc phát triểnthực tập “cắt đứt.” Giáo pháp này dựa trên học thuyếtcủa Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa. và liên hệ đến việc tu tậpđược phác họa để hủy diệt sự chấp trước với kháiniệm “tự ngã.” Chủ yếu của hệ thống “cắt đứt”là quán tưởng và tưởng tượng thân mình bị cắt đứtvà bị ăn tươi nuốt sống bởi bọn ma, mà người ta tin rằngminh họa sự vô thường bằng hình sẽ dẫn đến cảm giácbuông bỏ vật chất. Theo truyền thống tiểu sử học thìMachik Lapgi Dronmasanh làm một người Nam trong một giađình Bà La Môn ở Ấn Độ, gần xứ Ba La Niết Tư. Ông bèncải sang đạo Phật, nhưng sau một cuộc tranh luận với nhữngngười Bà La Môn khác, ông bị thúc giục phải rời khỏixứ. Ông bèn tự tách thức ra khỏi thân và chuyển nó quathân một người nữ ở Tây Tạng, có tên là Machik Lapgi Dronma.Bà lập gia đình với một người tu theo Mật giáo và sau đósanh ra ba người con trai và hai người con gái. Sau khi thọ giáopháp Mật giáo với Padampa Sangye và đệ tử của ông là GyodonSonam Lama, bà dựng một túp lều ẩn cư, tại đó bà đã sốnghết cuộc đời còn lại của mình. Bà mất năm 95 tuổi—Astudent of Padampa Sangye (eleventh century) who is best known for developingthe practice “cho” (cutting off). This is based on the doctrines ofthe “Perfection of Wisdom” sutra and involves practices designed todestroy attachment to the notion of “self.” Central to the system of“cutting off” are visualizations in which one imagines that one’sbody is cut up and devoured by demons, which is believed to illustrateits impermanence graphically and to lead to a sense of detachment fromphysical things. According to traditional biographies, Machik Lapgi Dronmawas born an Indian brahman male near Varanasi. He converted to Buddhism, but after a debate with other brahmans he was urged to flee the country.He separated his consciousness from his body and transferred it into afemale body in Tibet, who was named Machik Lapgi Dronma. She married atantric yogin and later gave birth to three sons and two daughters. Afterreceivingtantric instructions from Padampa Sangye and his studentGyodon Sonam Lama, she built a hermitage, where she spent the rest of herlife. She died at the age of ninety-five.

XII.Mahasena(334-362): Vua của xứ Sri Lanka từ năm 334 đến năm 362, ôngđã hết lòng bảo trợ các vị Tăng Đại Thừa, và ngườita báo cáo rằng chính ông đã cho san bằng khu Đại Tịnh Xácủa Phật giáo Nguyên Thủy và cho xây một tu viện Đại Thừagọi là “Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Tịnh Xá” ngay trên địađiểm ấy. Tuy nhiên khi con trai ông là Srimeghavanna lên ngôithì ông này quyết định phục hồi Đại Tịnh Xá và Phậtgiáo Theravada như là hình thức giáo có ưu thế ở đảo quốcnày—King of Sri Lanka who heartedly patronized Mahayana monks and whois reported to have razed the Theravada stronghold Mahavihara and builta new Mahayana monastery called Jetavana on the site. His son Srimeghavanna,however, decided to restore the Mahavihara and to reinstate Theravada asthe dominant form of Buddhism on the island.

XIII.MarpaChogi Lodro (1012-1097): See Chapter 19.

XIV.RinchenSangpo (958-1055): See Chapter 19.

XV.Srongsen Gampo (618-650): Srongsen Gampo được Phật giáo Tây Tạngxem như là vị vua thứ nhất trong “ba vị vua sùng đạo,”hai vị kia là Srong lDe Brtsan và Ralpacan. Người ta nghĩ rằngông là hiện thân của Đức Quán Thế Âm. Ông kết hôn với2 bà vợ đều là Phật tử: 1) bà công chúa người Népal,theo biên niên sử Tất Tạng, tên là Tritsun hay Pelsa, ngườimà truyền thống Tây Tạng tin rằng có nguồn gốc từ Bhrkuti;người ta nói bà đã mang theo hình tượng của Đức Bất ĐộngTôn Như Lai với bà đến Tây Tạng, bây giờ vẫn còn đượctôn thờ tại chùa Ramoche; và 2) một công chúa Trung Hoa tênlà Wen-Cheng, người đã mang theo mình hình tượng của ĐứcPhật Thích Ca Mâu Ni khi còn là một Thái tử trẻ tuổi. Hìnhtượng này được đặt trong chùa JoKhang tại Lhasa, và hiệnnay được xem như là bức Thánh tượng của Tây Tạng, đượcdân Tây Tạng xem như Rinpoche Jowo. Cả hai bà hoàng hậu đượcdân Tây Tạng xem như sự phát khởi của Đức Phật Tara. Mặcdầu tài liệu lịch sử không nói rõ đức vua là người hếtlòng bảo trợ Phật giáo, ông được những truyền thốngvề sau này xem như là vị nhiệt tình cổ võ làm cho giáo phápđược thiết lập vững chắc tại Tây Tạng—Considered byTibetan Buddhism to be the first of the three “religious kings,” theothers being Khri Srong lDe Brtsan and Ralpacan. He is thought to havebeen a physical manifestation of Avalokitesvara. He married two Buddhistwives: 1) Nepalese princess, referred to as Tritsun or Pelsa in Tibetanchronicles, who is believed by the tradition to be an emanation (bắtnguồn từ) of Bhrkuti; she is said to have brought an image of AkshobyaBuddha with her to Tibet, which is still housed in the Ramoche Temple;and 2) a Chinese princess named Wen-Cheng, who brought an image of SakyamuniBuddha as a young prince. This was housed in the JoKhang Temple in Lhasaand is today the holiest image in Tibet, referred to as Jowo Rinpoche byTibetan. Both women are regarded by Tibetan tradition as emanations ofthe Buddha Tara. Although records of the time do not indicate that theking was particularly devoted to Buddhism, he is regarded by the latertraditions as an ardent promoter of the dharma who firmly established itin Tibet.

XVI.TsongKhapa (1357-1419): Sumatikirti (skt)—Tông Khách Ba—Một trong nhữngnhà sư nổi tiếng nhất của Tây Tạng. Ông sanh ra tại vùngthung lũng Tsong Kha. Ông xuất gia với Karmapa đời thứ tư làGyelwa Karmapa Rolpe Dorje (1340-1383) vào lúc mới có ba tuổi. Vàolúc 7 tuổi ông thọ giới Sa Di, và lấy Pháp danh là LobsangGragspa. Hầu hết cuộc đời ông chu du khắp xứ Tây Tạng,học hỏi với nhiều thầy và nhiều truyền thống khác nhau,tập trung vào những truyền thống triết lý được truyềnlại cho Tây Tạng từ Ấn Độ cũng như kinh điển và thựctập mật chú. Ông chính là người cải cách hệ thống Chùabên Tây Tạng, vị sáng lập ra tông phái áo vàng (Hoàng Giáo)haytrường phái Gelukpa của Phật giáo Tây Tạng. Theo Tây VựcTân Ký thì Tông Khách Ba sanh năm 1417 tại Tân Ninh, tỉnh CamTúc, tông phái của ông được thành lập dựa trên sự tinhchuyên giữ giới, để đối lại với sự biếng nhác củaHồng Giáo (phái áo đỏ). Người ta cho rằng Tông Khách Balà hậu thân của Văn Thù; người khác lại cho rằng ông làhậu thân của Đức Phật A Di Đà. Ông nổi tiếng về vănhóa toàn vùng Tây Tạng như là một học giả tài ba, mộtthiền sưchứng đắc và một triết gia lỗi lạc. Nhữngtác phẩm do ông viết ra trải đầy trong 12 tạng kinh củaTây Tạng—One of the most famous Tibetan monks. He was born in theTsong Kha Valley. He left home and stayed with the fourth Gyelwa KarmapaRolpe Dorje at the age of three. At the age of seven he received the novicevows and was given the name Lobsang Gragspa. For most of his life he traveledall over the country, studying with teachers from various traditions, focusingon both the philosophical traditions that Tibet inherited from India andon tantric literature and practice. He was the reformer of the Tibetanchurch, founder of the Yellow Sect or the Gelukpa order of Tibetan Buddhism.According to the New Record of the Western Lands, Sumatikirti was bornin 1417 in Hsin-Ning, Kan-Su. His sect was founded on strict discipline,as opposed to the lax practices of the Red Sect. He is considered to bean incarnation of Manjusri; others say of Amitabha. He is renowned throughoutthe Tibetan cultural region as of of its most eminent scholars, famousmeditators, and outstanding philosophers. His written works fill twelvevolumes of the Tibetan Canon.

XVII.KhươngTăng Hội: Sanghavarman or Sanghapala (skt)—See Chapter 189 (B) (1).

XVIII.TỳNi Đa Lưu Chi: Vinitaruci (?-594)—See Chapter 189 (B) (2).

XIX.VôNgôn Thông: Thiền Sư Vô Ngôn Thông (?-826)—See Chapter 189 (B)(3).

XX.Trần Thái Tông (1218-1277): See Chapter 189 (B) (14).

XXI.TrầnThánh Tông (1240-1290): See Chapter 189 (B) (15).

XXII.TrầnNhân Tông (1258-1308): See Chapter 189 (B) (17).

XXIII.SưAn Thiền: See Chapter 189 (B) (21).

XXIV.MinhĐăng Quang: See Chapter 189 (B) (22).

XXV.QuangDuc: See Chapter 189 (B) (25).

PhậtNgôn:

Nhữngngười có đủ 36 dòng ái dục, họ mạnh mẽ dong ruổi theodục cảnh chẳng chút ngại ngùng, bởi vậy người đã cótâm tà kiến, hằng bị những tư tưởng ái dục làm trôidạt hoài—If in any man, the thirty-six streams of craving are stillflowing, such deluded person is still looking for pleasure and passion,and torrential thoughts of lust sweep him away (Kinh Pháp Cú—The DammapadaSutta 339).

Lòngái dục tuôn chảy khắp nơi như giống cỏ man-la mọc trànlan mặt đất. Ngươi hãy xen giống cỏ đó để dùng tuệkiếmđoạn hết căn gốc ái dục đi—Streams of pleasureand passion flow in all directions, just like the creeper sprouts and stands.Seeing the creeper that has sprung up in your mind, cut it off with wisdom(Kinh Pháp Cú—The Dammapada Sutta 340).

Ngườiđời thường vui thích theo ái dục, ưa dong ruổi lục trần,tuy họ có hướng cầu an lạc mà vẫn bị quanh quẩn trongchốn trầm luân—Common people are subject to attachment and thirst;they are always happy with pleasure; they run after passion. They lookfor happiness, but such men caught in the cycle ofbirth and decayagain and again (Kinh Pháp Cú—The Dammapada Sutta 341).

Chương 18: Những Vị Có Công Với Phật Giáo—those Who Had Helped Maintaining Buddhism (2024)

References

Top Articles
Latest Posts
Article information

Author: Kareem Mueller DO

Last Updated:

Views: 5757

Rating: 4.6 / 5 (66 voted)

Reviews: 89% of readers found this page helpful

Author information

Name: Kareem Mueller DO

Birthday: 1997-01-04

Address: Apt. 156 12935 Runolfsdottir Mission, Greenfort, MN 74384-6749

Phone: +16704982844747

Job: Corporate Administration Planner

Hobby: Mountain biking, Jewelry making, Stone skipping, Lacemaking, Knife making, Scrapbooking, Letterboxing

Introduction: My name is Kareem Mueller DO, I am a vivacious, super, thoughtful, excited, handsome, beautiful, combative person who loves writing and wants to share my knowledge and understanding with you.